Top 3 # Triệu Chứng Viêm Phổi Nhẹ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Cảnh Báo: Để Viêm Phổi Nhẹ Thành Nặng, Tôi Suýt Mất Con!

Đến giờ tôi vẫn còn cảm thấy run rẩy, sợ hãi vì sự thiếu hiểu biết của bản thân, để tình trạng viêm phổi của con từ nhẹ chuyển biến sang nặng, suýt chút nữa thì nguy hiểm tới tính mạng. Cũng may, mọi chuyện chưa quá muộn màng.

Chủ quan: Tôi để tình trạng viêm phổi của con từ nhẹ thành nặng!

Tít nhà tôi mới được hơn 5 tháng tuổi, trộm vía ăn được, ngủ được nên cân nặng tăng đều, ít bị ốm vặt. Mọi người ai cũng nói tôi mát tay, khéo chăm con. Tất cả vẫn suôn sẻ cho đến mấy ngày vừa rồi, tự dưng con bị sốt nhẹ, thỉnh thoảng có ho, hơi thở thì khò khè. Bà nội nói do thời tiết thay đổi, trẻ con ho hắng tí cũng là điều bình thường. Vì nghĩ con trước giờ khỏe mạnh, sức đề kháng tốt nên tôi cũng chủ quan, chỉ dán miếng hạ sốt và cho dùng siro để giảm ho.

Vậy mà 3 – 4 ngày liền vẫn chưa thấy đỡ. Sáng hôm qua con bỗng sốt cao trên 38 độ, có biểu hiện co giật, chân tay tím tái, ngủ li bì, không thèm dậy bú, tôi mới hốt hoảng gọi chồng về để đưa con đi khám bác sĩ.

Sau khi kiểm tra thì bác sĩ nói con bị viêm phổi nặng. Cũng may cho đi cấp cứu kịp thời, nếu không hậu quả thật khó lường, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng của con do các cơn co giật, hoặc suy hô hấp dẫn đến ngưng thở.

Thì ra, những biểu hiện mấy ngày vừa rồi: ho, sốt nhẹ, hơi thở bất thường…. chính là những triệu chứng viêm phổi nhẹ. Vì chủ quan cộng với thiếu hiểu biết nên tôi đã bỏ qua chúng. Suýt chút nữa thì hối hận cả đời!

Bác sĩ hướng dẫn cách xử lý viêm phổi: Tránh chuyển biến từ nhẹ thành nặng

Nghe bác sĩ nói viêm phổi nhẹ không xử lý kịp thời sẽ chuyển biến thành viêm phổi nặng, gây hàng loạt biến chứng nguy hiểm như: áp xe phổi, tràn khí màng phổi, suy hô hấp, nghiêm trọng hơn có thể gây tử vong… Tôi toát mồ hôi hột vì nghĩ con mình vừa thoát chết trong gang tấc.

Đặc biệt, quá trình viêm phổi từ nhẹ thành viêm phổi nặng sẽ diễn ra nhanh hơn ở những người có sức đề kháng kém như người già, trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ. Vì vậy, theo bác sĩ, cần chú ý theo dõi để nhận biết và xử lý:

– Xuất hiện những cơn ho

– Thở nhanh, gấp hơn bình thường. Tùy vào độ tuổi để xác định như thế nào là thở nhanh. Cách tính cụ thể ở trẻ nhỏ như sau: thở trên 60 lần/phút (đối với trẻ dưới 2 tháng tuổi), trên 50 lần/phút (đối với trẻ từ 2 tháng – 1 tuổi) hoặc trên 40 lần/phút (với trẻ trên 1 tuổi).

– Viêm phổi nhẹ có biểu hiện sốt nhẹ, cơ thể đổ nhiều mồ hôi hơn.

– Cơ thể mệt mỏi, khó chịu. Riêng đối với trẻ em bị viêm phổi nhẹ sẽ quấy khóc, bú ít hơn bình thường.

Cách xử lý:

– Khi có những biểu hiện viêm phổi nhẹ, người bệnh tốt nhất nên đi khám bác sĩ để được chữa trị kịp thời. Đặc biệt là với trẻ nhỏ, hệ miễn dịch kém, các tác nhân gây bệnh sẽ tấn công nhanh hơn và gây hậu quả nghiêm trọng hơn. Cha mẹ tuyệt đối không nên chủ quan.

– Ngoài việc điều trị theo chỉ dẫn, cần có chế độ chăm sóc sức khỏe thật tốt để bệnh viêm phổi nhẹ không chuyển biến thành nặng. Chú ý ăn uống, nghỉ ngơi, bổ sung đa dạng các loại dưỡng chất cho cơ thể. Với trẻ nhỏ thì tăng cường cho bú mẹ để nâng cao đề kháng.

– Đồng thời, tiếp tục theo dõi những biểu hiện khác, nếu bệnh có chuyển biến thành viêm phổi nặng thì xử lý nhanh chóng, tránh biến chứng nguy hiểm.

Bệnh nhân bị viêm phổi nặng sẽ có những dấu hiệu dễ nhận biết hơn:

– Các dấu hiệu viêm phổi nhẹ: ho, sốt, khó thở… kéo dài.

– Sốt cao liên tục, 39 độ.

– Ho dữ dội hơn, có đờm, đờm có màu, mùi khác lạ, thậm chí ho ra máu.

– Viêm phổi nặng dẫn đến cảm giác đau, tức ngực dữ dội.

– Khó thở, thở rít tại lồng ngực. Với trẻ em sẽ có biểu hiện rút lõm lồng ngực, hơi thở nhanh, gấp gáp, phải gắng sức để thở.

– Cơ thể mệt mỏi, ra nhiều mồ hôi, chân tay, môi tím tái. Trẻ em viêm phổi nặng thường bỏ bú, ngủ li bì, thậm chí xuất hiện những cơn co giật, vô cùng nguy hiểm.

Cách xử lý khi bị viêm phổi nặng:

Lập tức đưa đi bác sĩ khi bệnh nhân có biểu hiện viêm phổi nặng. Tùy vào mức độ, nguyên nhân và thể trạng của người bệnh, bác sĩ sẽ đưa ra các phác đồ điều trị khác nhau. Trước tiên, có thể dùng thuốc để kiểm soát, tiêu diệt tác nhân gây bệnh và giảm các triệu chứng: sốt, ho, ho ra đờm, khó thở… Sau đó, sẽ tính đến phương án hỗ trợ điều trị, giúp bệnh nhân phục hồi.

Triệu Chứng Của Bệnh Viêm Phổi

Đây là bệnh lý nhiễm trùng đường hô hấp thường gặp nhất trong cuộc sống hàng ngày, có thể nói, không ai trong cuộc đời lại không có một lần bị viêm phổi. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời có thể dẫn tới những biến chứng rất nặng nguy hiểm tới tính mạng. Việc phát hiện sớm triệu chứng của bệnh viêm phổi rất quan trọng.

Viêm phổi là tình trang phổi bị viêm, ảnh hưởng chủ yếu đến các túi khí nhỏ được gọi là phế nang.Viêm phổi thường gây ra bởi hiện tượng nhiễm trùng do virus hoặc vi khuẩn, và các vi sinh vật khác ít phổ biến hơn.

1. Ho

Ho: là triệu chứng xuất hiện sớm, ho thành cơn, hoặc ho thúng thắng, thường là ho có đờm, một số trường hợp ho khan. trường hợp điển hình đờm có màu rỉ sắt, các trường hợp khác đờm có màu vàng hoặc màu xanh, đôi khi khạc đờm như mủ. đờm có thể có mùi hôi, thối.

Thay đổi màu sắc đờm hoặc dịch tiết đường hô hấp Ho có thể là triệu chứng sớm của viêm phổi, người bị viêm phổi thường bị ho thành cơn, ho thúng thắng, thường là ho có đờm, một số trường hợp bị ho khan. Nghiêm trọng hơn là ho có đờm, đờm có màu rỉ sắt, một số trường hợp đờm có màu vàng, màu xanh, đôi khi là đờm có mủ, có mùi hôi, thối.

2. Đau ngực

Đau ngực: đau ngực vùng tổn thương, đau ít hoặc nhiều, có trường hợp đau rất dữ dội.

Khó thở: viêm phổi nhẹ không có khó thở, những trường hợp nặng bệnh nhân thở nhanh nông, có thể có co kéo cơ hô hấp.

Khó thở tăng dần Người bệnh viêm phổi thường có những triệu chứng như đau ngực vùng bị tổn thương, tùy theo từng người mà cảm giác có thể đau ít hoặc nhiều, có trường hợp đau rất dữ dội. Ngoài ra người bệnh còn bị khó thở, trường hợp nhẹ là hơi khó thở, còn nặng hơn là thở nhanh nông, có thể co kéo cơ hô hấp.

4. Môi khô

Môi khô, một số trường hợp có hecpet hoặc ban xuất huyết trên da; lưỡi bẩn, hơi thở hôi. bệnh nhân thường mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn; có thể có đau đầu, đau mỏi người ở những trường hợp viêm phổi do vi rút, M. pneumoniae…

Một số người bệnh còn bị ban xuất huyết trên da, quan sát thấy lưỡi bẩn, hơi thở hôi. Bệnh nhân thường mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn, có thể đau đầu, đau mỏi người ở những trường hợp viêm phổi do virus . Ở một số trẻ bị viêm phổi còn có thể bị rối loạn ý thức

3. Sốt

Sốt là biểu hiện thường thấy ở người bệnh viêm phổi. Sốt thành từng cơn hay sốt liên tục cả ngày, kèm theo rét run hoặc không. Có người còn bị sốt cao nhiệt độ cơ thể lên tới 40-41 độ C, có những trường hợp chỉ sốt nhẹ 38-38,5 0 c, những trường hợp này thường xảy ra ở những bệnh nhân có sức đề kháng giảm nhiều như: suy giảm miễn dịch, người già, trẻ nhỏ, có các bệnh mạn tính kèm theo.

Người bệnh sốt cao thường thấy da đỏ lên, nóng ran, khi xuất hiện các dấu hiệu như tím môi, tím đầu chi có thể là đấu hiệu suy hô hấp.

Trường hợp nặng hoặc những trường hợp viêm phổi ở trẻ em có thể có thể có rối loạn ý thức.

Phương pháp chẩn đoán viêm phổi:

Với người bệnh viêm phổi, khi khám phổi sẽ thấy tần số thở tăng, có co kéo cơ hô hấp hoặc không, hám phổi có hội chứng đông đặc, ran ẩm, ran nổ vùng tổn thương.

Ở các bộ phận khác, khi khám thấy mạch nhanh, huyết áp bình thường trong trường hợp nặng có sốc, huyết áp thấp, mạch nhỏ, nhanh.

Trong những trường hợp như vậy, khi đi khám bệnh, các xét nghiệm thông thường được các bác sỹ yêu cầu thực hiện với những bệnh nhân bao gồm

Chụp X quang:

Khi chụp X quang phổi thấy xuất hiện hình trắng mở của một vùng tại phổi, một số trường hợp hình mờ này có dạng hình tam giác mà đỉnh tam giác quay về phía rốn phổi. Còn đa số các trường hợp trên phim chụp phổi chỉ thấy đám mờ trắng hoặc những nốt mờ tập trung ở một vùng của phổi. Một số ít trường hợp thấy hình ảnh góc tạo bởi khung xương sườn và cơ hoành tù (những trường hợp này thường có tràn dịch màng phổi kèm theo).

Công thức máu:

Cấy đờm, cấy máu để tìm căn nguyên vi sinh gây viêm phổi.

Ngoài ra còn một số các xét nghiệm khác được chỉ định làm trong những trường hợp bệnh cụ thể.

Cách phát hiện sớm bệnh viêm phổi ở trẻ em

Tóm lại : bệnh nhân cần bố trí thời gian đi khám bác sỹ sớm thấy các triệu chứng như sau:

Ho nhiều, ho nghiêm trọng, gây mất ngủ.

Sốt kéo dài hơn 3 ngày hoặc sốt cao hơn 38 độ,

Khó thở hoặc bị ho ra máu, chất nhầy màu vàng hoặc màu xanh lá cây.

Ho kéo dài hơn 3 tuần.

Người bệnh tim phổi mãn tính hay các vấn đề bao gồm cả bệnh hen suyễn, khí phế thũng, hoặc suy tim sung huyết, và nghĩ rằng có thể đã phát triển viêm phế quản. Các điều kiện này có nguy cơ phát triển các biến chứng nhiễm trùng phế quản.

Cơn viêm phế quản xuất hiện nhiều lần, lặp đi lặp lại, có thể có viêm phế quản mạn tính, tình trạng sức khỏe nghiêm trọng khác như bệnh suyễn hoặc chứng giãn phế quản.

? 11 Triệu Chứng Viêm Phổi Ở Mèo

Các triệu chứng của viêm phổi ở mèo là mong muốn đối với mỗi chủ sở hữu yêu thương để biết, để nếu họ có vấn đề với sức khỏe của vật nuôi của họ, họ sẽ có thể cung cấp cho họ sự hỗ trợ cần thiết một cách kịp thời. Đối với một con mèo, đối với một con chó, viêm phổi là một thách thức nghiêm trọng. Con đường lây nhiễm của động vật có thể khác nhau. Nếu bạn bỏ lỡ sự khởi đầu của viêm phổi, có một mối đe dọa nghiêm trọng cho cuộc sống của con mèo, và thậm chí điều trị không phải luôn luôn cứu thú cưng. Ở tuổi trẻ và có sức khỏe tốt, tình trạng viêm phổi ở mèo không phổ biến. Tuy nhiên, với tuổi tác hoặc với sinh thái kém, phổi trở nên rất dễ bị tổn thương, và viêm phổi có thể xảy ra cái khác.

Nội dung

Các triệu chứng của viêm phổi

Khi viêm phổi là lúc bắt đầu phát triển, các triệu chứng của nó trong một con mèo không phải là rất rõ rệt, và chủ sở hữu, nếu không chú ý đủ để người bạn bốn chân của mình, có thể bỏ qua bệnh. Vì vậy, các triệu chứng đầu tiên và điều trị viêm phổi ở mèo trong hầu hết các trường hợp không bắt đầu cùng một lúc – liệu pháp hơi chậm trễ. Sau 2-3 ngày, các triệu chứng của viêm phổi trở nên tươi sáng, và không thể không nhận thấy chúng.

© shutterstock

Mèo phát triển viêm phổi trong các triệu chứng sau đây.:

khát khao dai dẳng;

mũi khô nóng;

nhiệt độ tăng lên 41về;

tăng nhịp tim;

thở nhanh;

chảy nước mắt;

nước bọt không phải luôn luôn như vậy;

lưu hành mũi mủ phong phú với một mùi sắc nét, cực kỳ khó chịu;

ho khô hoặc ướt;

kiệt sức nhanh chóng;

loại len không lành mạnh.

Viêm phổi phát triển nhanh chóng, và tình trạng của mèo xấu đi trước mắt chúng tôi, vì vậy bạn nên đến phòng khám thú y không chậm trễ. Bất kỳ sự chậm trễ nào trong việc điều trị viêm phổi đều có thể gây tử vong cho thú cưng.

Nếu không có một cuộc kiểm tra đầy đủ của động vật, nó là không thể chẩn đoán chính xác, vì các dấu hiệu của viêm phổi ở mèo là trong nhiều cách tương tự như các triệu chứng của bệnh lý khác. Để nhận biết căn bệnh này, bạn phải tiến hành những điều sau đây:

X-quang phổi – cho thấy sưng của họ và bản chất của sự phát triển của viêm, có thể được yêu cầu trong một số dự;

số lượng máu sinh hóa và đầy đủ;

nghe phổi thở khò khè;

kiểm tra đờm để xác định tác nhân gây viêm phổi để sử dụng những kháng sinh đó có hiệu quả chống lại nó;

đo nhiệt độ.

Viêm phổi điển hình là do các tác nhân gây bệnh nổi tiếng gây ra, và nó sử dụng các loại thuốc kháng sinh với một dải hành động hẹp. Khi viêm phổi không điển hình, nó được kích hoạt bởi vi khuẩn chưa được khám phá, và kháng sinh phổ rộng hiện đại là cần thiết để loại bỏ chúng.

© shutterstock

Nếu, sau khi chẩn đoán, tình trạng của mèo sẽ được đánh giá là nghiêm trọng, sau đó vật nuôi sẽ cần phải nhập viện, vì nó đòi hỏi sự giám sát thú y liên tục. Nếu không có sự giúp đỡ khẩn cấp từ một chuyên gia ở nhà, con vật có thể chết. Khi tình trạng nhẹ hoặc nhẹ, việc điều trị viêm phổi được thực hiện tại nhà với sự tuân thủ nghiêm ngặt các khuyến nghị của bác sĩ thú y.

Căn bệnh này, được gọi là viêm phổi, có một bản chất khác. Vì vậy, nó là cần thiết để xác định tác nhân gây bệnh của nó trước khi bắt đầu điều trị. Tự dùng thuốc cho viêm phổi ở mèo có thể gây tử vong, ngay cả khi bệnh không phức tạp. Cho điều này, nó nên, ngay sau khi biểu hiện của bệnh lý xuất hiện, hiển thị các vật nuôi cho một chuyên gia, những người sẽ quyết định làm thế nào để điều trị viêm phổi trong một con mèo trong một tình huống cụ thể.Thời gian điều trị là từ 3 đến 6 tuần, và trong các trường hợp đặc biệt – 2 tháng.

Thay đổi không được phép của chương trình cho thuốc hoặc thay thế chúng không được phép. Khi chủ sở hữu nghĩ rằng tốt hơn cho con mèo để hủy bỏ thuốc hoặc chọn một loại thuốc khác, trước tiên anh ta phải đồng ý với bác sĩ thú y. Nếu không cho phép các hành động này, thì chúng sẽ không được thực hiện. Nếu muốn, việc điều trị viêm phổi truyền thống có thể được bổ sung bằng biện pháp khắc phục tại nhà. Kết quả tốt thu được bằng cách cho mèo một lượng mật ong nhỏ.

Các điều kiện của động vật trong quá trình điều trị cần đặc biệt. Mèo bị bệnh nên nghỉ ngơi. Cô ấy cần trang bị cho chiếc ghế dài trong một nơi yên tĩnh và ấm áp với ánh sáng bị bóp nghẹt. Nó không thể bị làm phiền bởi trẻ em hoặc động vật khác. Khi thú cưng muốn giao tiếp, anh ta sẽ đến gặp người đó. Nó cũng sẽ đòi hỏi phải làm ẩm không khí thường xuyên, vì nếu nó quá khô, tình trạng của phổi bị viêm sẽ chỉ trở nên tồi tệ hơn, và quá trình hô hấp sẽ còn khó khăn hơn.

Tất cả thức ăn và nước uống phải ấm. Nó không phải là không phổ biến cho viêm phổi rằng động vật hoàn toàn mất sự thèm ăn của nó.Nếu con mèo ngừng ăn, cô ấy không có đủ sức mạnh để phục hồi, và do đó người chủ nên tìm cách thuyết phục con vật ăn. Nếu ngay cả những món ngon được yêu thích nhất cũng bị bỏ qua, thì nước muối và đường truyền sẽ được yêu cầu để duy trì sức mạnh của động vật, cũng như nước dùng ống tiêm và thức ăn lỏng.

Khó thở trong mèo thường gặp ở bệnh viêm phổi. Một massage nhẹ giúp đối phó với nó.. Để tăng tốc độ làm sạch phổi từ đờm, ngực được mát xa. Với nó, nhẹ nhàng chạm vào các đầu ngón tay trên ngực mèo, mà không gây đau và di chuyển lên từ bụng. Nếu, sau khi phẫu thuật, có một ho gây ra đờm, không có gì phải lo lắng. Phản ứng sinh vật như vậy đối với thủ tục được cho phép.

© shutterstock

Khi một con mèo bị viêm phổi nặng run rẩy, bạn có thể sử dụng một chiếc võng võng đặc biệt cho nó, gắn với pin. Các bức tường của nó khá dày đặc, và vật nuôi sẽ không bị đốt cháy chắc chắn, nhưng hệ thống sưởi sẽ hoàn tất. Thay vì đi lang thang như vậy, bạn cũng có thể sử dụng một chiếc ghế, được chuyển sang pin, trước đó treo với một tấm chăn.

Trong điều trị viêm phổi ở mèo, khi bệnh do nhiễm trùng do vi khuẩn gây ra, nó là cần thiết để sử dụng thuốc kháng sinh. Khi, sau khi kiểm tra vi khuẩn, các tác nhân gây bệnh gram âm được xác định, các loại thuốc đó được quy định.:

Đối với tác nhân gây bệnh của nhóm gram dương, các kháng sinh sau đây được hiển thị.:

Tất cả các loại thuốc đều được tiêm. Khi uống thuốc kháng sinh, ngứa có thể xảy ra. Hiện tượng này là tạm thời và không nguy hiểm.

© shutterstock

Ngoài các loại thuốc có hành động được hướng trực tiếp đến cuộc chiến chống lại tác nhân gây bệnh, trong điều trị viêm phổi, một quá trình điều trị duy trì cũng được thực hiện. Nó cho phép bạn tránh các biến chứng của tình trạng và tăng tốc độ phục hồi của con mèo.

Immunomodulators được yêu cầu phải được quy định, chẳng hạn như gamavit và fosprenil, cũng như các phức hợp vitamin.Để đẩy nhanh quá trình tiết dịch đờm và thanh lọc nhanh phổi, cần sử dụng các chất nhầy. Thông thường, bác sĩ thú y được quy định lozalvan và mucoltin. Chúng chỉ được cung cấp khi ho của mèo bị ướt. Khi động vật ho khan, cũng như người, thuốc đờm được chống chỉ định nghiêm ngặt.

Có nghĩa là để loại bỏ ho là không thể chấp nhận được, vì chúng sẽ không cho phép đờm khởi hành và được làm sạch bởi phổi, từ đó tình trạng của thú cưng sẽ trở nên tồi tệ hơn.

Nếu có các rối loạn của hệ thống tim, thì thuốc an thần được bao gồm trong liệu pháp phức tạp. Khi có hiện tượng sưng, việc điều trị được bổ sung với sự bao gồm thuốc lợi tiểu.

Viêm phổi ở mèo, như ở người, là một căn bệnh nguy hiểm luôn đòi hỏi phải điều trị khẩn cấp và có thẩm quyền.

Viêm Phổi Là Gì? Triệu Chứng, Chẩn Đoán Và Điều Trị Bệnh Viêm Phổi

Viêm phổi là một bệnh cảnh lâm sàng do thương tổn tổ chức phổi (phế nang, tổ chức liên kết kẻ và tiểu phế quản tận cùng), gây nên do nhiều tác nhân như vi khuẩn, virus, nấm, ký sinh trùng, hóa chất…Người ta phân ra viêm phổi thùy và phế quản phế viêm.

DỊCH TỂ HỌC

Bệnh thường xảy ra ở những người có cơ địa xấu như người già, trẻ em suy dinh dưỡng, cơ địa có các bệnh mạn tính, giảm miễn dịch, nghiện rượu, suy dưỡng hay các bệnh phổi có trước như (viêm phê quản mạn, giản phế quản, hen phế quản…). Bệnh thường xuất hiện ở lúc thay đổi thời tiết, yếu tố môi trừng thuận lợi và có thể tạo thành dịch nhất là virus, phế cầu, Hemophillus.

– Ở các nước: Ở Ba Lan viêm phổi cấp chiếm 1/3 các trường hợp nhiễm trùng hô hấp cấp (Szenuka 1982), ở Hungari thì tỉ lệ là 12 % các bệnh hô hấp điều trị (1985), tỉ lệ tử vong ở các nước phát triển là 10-15 % ở trẻ nhỏ người già, ở Châu Âu tỉ lệ tử vong của viêm phổi là khoảng 4,4 %, Châu Á 4,1-13,4 %, Châu Phi 12,9 % (Hitze.K.L 1980)

– Ở Việt Nam: Ở Bạch Mai và Viện Quân Y 103 thì viêm phổi cấp chiếm tỷ lệ 16-25 % các bệnh phổi không do lao, đứng thứ 2 sau hen phế quản (Đinh Ngọc Sáng 1990) Viêm phổi cấp (từ 1981-1987) ở Viện Lao và phổi là 6,7 % (Hoàng Long Phát và cộng sự). Viện Quân Y 103 (từ 1970-1983) khoảng 20- 25,7 % các bệnh phổi, thứ 3 sau viêm phế quản và hen phế quản, theo Chu Văn Ý thì khoảng 16,5 %.

Tỷ lệ tử vong ở các bệnh viện Hà Nội # 36,6 % so với các bệnh phổi (Nguyễn Việt Cồ 1988). Và tỷ lệ tử vong của viêm phổi ở Việt Nam khoảng 12 % các bệnh phổi (Chu Văn Ý)

BỆNH NGUYÊN

Do nhiều nguyên nhân gây bệnh khác nhau

Các loại vi khuẩn gây nên viêm phổi thường gặp nhất hiện nay là: Phế cầu khuẩn, Hemophillus influenzae, Legionella pneumophila, Mycoplasma pneumoniae.Ngoài ra còn có các loại vi khuẩn khác như Liên cầu, tụ cầu vàng, Friedlander (Klebsiella pneumoniae), Pseudomonas aeruginosa, các vi chuẩn kị khí như Fusobacterium, hoặc là các vi khuẩn gram âm, thương hàn, dịch hạch…

Như virus cúm (Influenza virus), virus sởi, Adenovirus, đậu mùa, bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Ở Mỹ viêm phổi do virus 73 % nhiễm khuẩn hô hấp- 40% do virus cúm.

Nấm: Actinomyces, Blastomyces, Aspergillus…

Do ký sinh trùng: Amip, giun đũa, sán lá phổi.

Do hóa chất: Xăng, dầu, acid, dịch dạ dày.

Do các nguyên nhân khác: Như bức xạ, tắc phế quản do u phế quản phổi, do ứ đọng…

CƠ CHẾ BỆNH SINH

Tác nhân gây bệnh vào phổi thường là qua đường thở (không khí, vi khuẩn ở đường hô hấp trên) bị hút xuống, gặp điều kiện môi trường thuận lợi, sức đề kháng của cơ thể kém hoặc do độc lực vi khuẩn mạnh… Hoặc tác nhân gây bệnh ở các cơ quan lân cận như màng phổi, màng tim, gan… hay đến qua đường máu, bạch mạch và ngược lại từ phổi có thể đến cơ quan lân cận và vào máu gây nhiễm trùng huyết.

Vai trò cơ địa rất quan trọng nhất là người nghiện ruơụ, thuốc lá, suy dưỡng, giảm khả năng miễn dịch và các bệnh mạn tính ở phổi đóng góp vai trò quan trọng trong bệnh sinh và đáp ứng điều trị.

GIẢI PHẨU BỆNH

1.Viêm phổi thùy: Thương tổn có thể là một phân thùy, một thùy hay nhiều thùy, hoặc có khi cả hai bên phổi, thường gặp nhất là thùy dưới phổi phải.

Theo sự mô tả của Laennec thì có các giai đoạn

1.1.Giai đoạn sung huyết: Vùng phổi thương tổn bị sung huyết nặng, các mao mạch giãn ra, hồng cầu, bạch cầu và fibrin thoát vào trong lòng phế nang, trong dịch này có chứa nhiều vi khuẩn.

1.2.Giai đoạn gan hóa đỏ: Trong một đến 3 ngày tổ chức phổi bị thương tổn có màu đỏ xẩm và chắc như gan, trong tổ chức này có thể có xuất huyết.

1.3.Giai đoạn gan hóa xám: Thuơng tổn phổi có màu nâu xám chứa hồng cầu, bạch cầu, vi khuẩn và tổ chức hoại tử.

1.4.Giai đoạn lui bệnh: Trong lòng phế nang còn ít dịch loãng, có ít bạch cầu.

Phế quản, phế viêm: Các thương tổn rãi rác cả hai phổi, vùng thương tổn xen lẫn với vùng phổi lành, các tiểu phế quản thương tổn nặng nề hơn, các thương tổn không đều nhau và khi khỏi thường để lại xơ.

TRIỆU CHỨNG HỌC

Đây là nguyên nhân hàng đầu gây viêm phổi thùy, chiếm tỷ lệ 60-70%, xãy ra ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp là trẻ con, người già, suy dinh dưỡng, giảm miễn dịch thì tỉ lệ cao hơn, bệnh thuờng xãy ra vào mùa đông-xuân và có khi gây thành dịch, hoặc xảy ra sau các trường hợp nhiễm virus ở đường hô hấp trên như cúm, sởi, herpes… hay ở người bệnh hôn mê, nằm lâu, suy kiệt…

1.1. Giai đoạn khởi phát: Bệnh thường khởi đầu đột ngột với sốt cao,rét run, sốt giao động trong ngày, có đau tức ở ngực, khó thở nhẹ, mạch nhanh, ho khan toàn trạng mệt mỏi, gầy sút, chán ăn, ở môi miệng có Herpes, nhưng các triệu chứng thực thể còn nghèo nàn.

1.2.Giai đoạn toàn phát: Thuờng từ ngày thứ 3 trở đi, các triệu chứng lâm sàng đầy đủ hơn, tình trạng nhiềm trùng nặng lên với sốt cao liên tục, mệt mỏi, gầy sút, biếng ăn, khát nước, đau ngực tăng lên, khó thở nặng hơn, ho nhiều, đàm đặc có màu gỉ sắt hay có máu, nước tiểu ít và sẫm máu.

Khám phổi có hội chứng đông đặc phổi điển hình (hoặc không điển hình) với rung thanh tăng, ấn các khoảng gian sườn đau, gõ đục, nghe âm phế bào giảm, âm thổi ống và ran nổ khô chung quanh vùng đông đặc. Nếu thương tổn nhiều thì có dấu suy hô hấp cấp, có gan lớn và đau, có khi có vàng da và xuất huyết dưới da, ở trẻ em có rối loạn tiêu hóa như buồn nôn, nôn, bụng chướng.

Cận lâm sàng: Xét nghiệm máu có lượng bạch cầu tăng, bạch cầu trung tính tăng, tốc độ máu lắng cao, soi tưới và cấy đàm có thể tìm thấy phế cầu, có khi cấy máu có phế cầu. Chụp film phổi thấy có một đám mờ bờ rõ hay không rõ chiếm một thùy hay phân thùy và thuờng gặp là thùy dưới phổi phải.

1.3. Giai đoạn lui bệnh: – Nếu sức đề kháng tốt, điều trị sớm và đúng thì bệnh sẽ thoái lui sau 7 đến 10 ngày, nhiệt độ giảm dần, toàn trạng khỏe hơn, ăn cảm thấy ngon, nước tiểu tăng dần, ho nhiều và đàm loãng, trong, đau ngực và khó thở giảm dần. Khám phổi thấy âm thổi ống biến mất, ran nổ giảm đi thay vào là ran ẩm. Thường triệu chứng cơ năng giảm sớm hơn triệu chứng thực thể. Xét nghiệm máu số lượng bạch cầu trở về bình thuờng, lắng máu bình thường, thương tổn phổi trên X quang mờ dần. Bệnh khỏi hẳn sau 10-15 ngày.

Nếu không điều trị hay điều trị không đúng, sức đề kháng quá kém thì bệnh sẽ nặng dần, tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc tăng lên, suy hô hấp, nhiễm trùng huyết hay có nhiều biến chứng khác như áp xe phổi, tràn dịch, tràn mủ màng phổi,màng tim…

Phế quản phế viêm: Bệnh thường xảy ra ở trẻ em và người già, người suy kiệt, hôn mê, sau các nhiễm vi rút làm suy yếu miễn dịch hay có một bệnh mạn tính…

Bệnh khởi phát từ từ sốt, tăng dần, khó thở càng lúc càng tăng dẫn đến suy hô hấp cấp, toàng trạng biểu hiện một nhiễm trùng nhiễm độc câp, nặng, có thể lơ mơ, mê sảng… khám phổi nghe được ran nổ, ran ẩm, ran phế quản, rãi rác cả hai phổi, lan tỏa rất nhanh, đây là một bệnh cảnh lâm sàng vừa thương tổn phổi và phế quản lan tỏa.

Xét nghiệm máu thấy bạch cầu tăng cao, bạch cầu trung tính tăng, lắng máu tăng đặc biệt là phim phổi thấy nhiều đám mờ rải rác cả hai phổi tiến tiễn theo từng ngày.

Nếu không điều trị hay điểu trị chậm bệnh sẽ dẫn đến suy hô hấp nặng, nhiễm trùng huyết, toàn trạng suy sụp và có thể tử vong.

CHẨN ĐOÁN

1. Viêm phổi thùy

1.1. Chẩn đoán xác định

– Hội chứng nhiễm trùng.

– Hội chứng đặc phổi điển hình (hoặc không điển hình)

– Hội chứng suy hô hấp cấp (có thể có)

1.2. Chẩn đoán nguyên nhân: Dựa vào

– Diễn tiến lâm sàng.

– Yếu tố dịch tễ.

– Kết quả xét nghiệm đàm.

– Đáp ứng điều trị

1.3. Chẩn đoán phân biệt

– Phế viêm lao: Bệnh cảnh kéo dài, hội chứng nhiễm trùng không rầm rộ, làm các xét nghiệm về lao để phân biệt.

– Nhồi máu phổi: Cơ địa có bệnh tim mạch, nằm lâu, có cơn đau ngực đột ngột, dữ dội, khái huyết nhiều, choáng.

– Ung thư phế quản – phổi bội nhiễm: Thương tổn phổi hay lặp đi lặp lại ở một vùng và càng về sau càng nặng dần.

– Áp xe phổi giai đoạn đầu.

– Viêm màng phổi dựa vào X quang và lâm sàng.

– Xẹp phổi: không có hội chứng nhiễm trùng, âm phế bào mất, không có ran nổ. X quang có hình ảnh xẹp phổi.

2. Phế quản phế viêm

2.1.Chẩn đoán xác định

– Cơ địa suy kiệt, sau nhiễm Virus, có bệnh mạn tính.

– Hội chứng nhiễm trùng cấp và nặng

– Hội chứng thương tổn phế nang lan tỏa

– Hội chứng thương tổn phế quản.

– Hội chứng suy hô hấp cấp

2.2. Chẩn đoán phân biệt

– Phế quản phế viên lao: Phải làm các xét nghiệm về lao.

– Hen phế quản bội nhiễm: Tiền sử hen phế quản, cơn khó thở xảy ra trước sau đó có hội chứng nhiểm trùng, đáp ứng với các thuốc giản phế quản.

– Giãn phế quản: Bệnh kéo dài, tiền sử ho và khạc đàm nhiều vào buổi sáng, suy hô hấp mạn, ngón tay hình dùi trống.

BIẾN CHỨNG

Do độc lực của tác nhân gây bệnh mạnh, sức đề kháng kém, có bệnh mạn tính, điều trị không đúng, bệnh sẽ dẫn đến

– Áp xe phổi

– Tràn dịch, mủ màng phổi, màng tim.

– Phù phổi cấp (do thương tổn lan tỏa).

– Nhiễm trùng huyết.

CÁC THỂ LÂM SÀNG

Có thể tiên phát qua đường thở hay thứ phát qua đường máu (nhiễm trùng máu), lâm sàng có thể giống như do phế cầu,nhưng thường là dưới dạng nhiều áp xe nhỏ ở phổi, phế quản phế viêm, ở trẻ em thường là áp xe phổi và tràn mủ màng phổi gọi là tụ cầu phổi – màng phổi, bệnh nhiều biến chứng rất nặng và tỷ lệ tử vong cao.

Là loại trực khuẩn Gr (-), gây thương tổn hoại tử ở phổi rất nặng và nhanh gây ho ra máu nhiều, lây nhiễm mạnh và tỷ lệ tử vong rất cao.

Thuờng xảy ra trong các vụ dịch như cúm, sởi, hay nhiễm virus ở đường hô hấp trên, bệnh khởi đột ngột. Hội chứng đặc phổi không điển hình, triệu chứng thực thể nghèo nàn và khỏi sau 7 đến 10 ngày.

Thường thương tổn phổi cả hai bên, chủ yếu ở vùng gần rốn phổi rồi lan dần ra, có khi rãi rác khắp hai phổi, triệu chứng lâm sàng giống phế quản phế viêm, có khái huyết chẩn đoán nhờ tìm nấm trong đàm.

– Do giun đũa: Là một thương tổn nhỏ ở phổi có thể có ho, có ít đàm, nhưng thương tổn này mau biến mất tự nhiên gọi là thâm nhiễm mau bay hay hội chứng Loeffler.

– Do amip: Thuờng thứ phát sau amip gan nhưng cũng có khi nguyên phát tại phổi, thương tổn chủ yếu là đáy phổi phải sát với cơ hoành (có khi ở phổi trái), hội chứng nhiễm trùng vừa phải, đau ngực và ho ra máu hay đàm có màu chocolat. Cần xét nghiệm soi tươi đàm tìm amip, đáp ứng với thuốc kháng amip tốt.

Thuờng gặp nhất là xăng dầu do hút vào, triệu chứng lâm sàng xảy ra sau 6-12 giờ khi hóa chất vào phổi, thương tổn chủ yếu là đáy phổi phải, có đau ngực dữ dội và ho ra máu, có sốt cao. Phải điều trị sớm bằng kháng sinh (chống nhiễm trùng) và corticoid.

ĐIỀU TRỊ

Nguyên tắc điều trị là sớm, mạnh, đủu liệu trình và theo dõi diễn tiến bệnh.

– Nghĩ ngơi tại giường trong giai đoạn bệnh tiến triễn.

-Tiết thực dễ tiêu, đảm bảo đủ calo, thêm đạm và các loại vitamin nhóm B,C

– Bù nước và điện giải vì sốt cao, ăn uống kém, nôn, đi chảy…

2.1.Thuốc hạ sốt

Thuốc hạ sốt thường có tác dụng giảm đau. Có thể dùng paracetamol 0,5g x 3 tới 4 lần/ngày. hoặc là Acetaminophene, Diantalvic…

2.2. Đảm bảo thông khí

Nếu có suy hô hấp thì dùng ôxy qua sonde mũi 5-10 lit/phút tùy mức độ (lưu ý nếu có suy hô hấp mạn thì giảm liều còn 1-2 lít /phút và ngắt quảng).

2.3. Các thuốc giãn phế quản

Nếu có dấu co thắt phế quản có thể cho thêm Theophylline 100-200mg x 3 lần/ngày.

2.4. Các loại thuốc ho và long đàm

– Nếu ho nhiều có thể dùng Codein (Acodin, Neocodeon…) 100mg x 3 lần/ngày.

– Nếu đàm đặc và khó khạc có thể dùng các loại như Terpin, Benzoat Natri, Eucaylyptin… hoặc Acemuc, Exocemuc, Mucosolvon, Rhinathiol… 2-3 gói/ngày. Hoặc 3-4 viên/ngày.

Đây là điều trị chính để giải quyết nguyên nhân gây bệnh. Cụ thể là kháng sinh, thuốc phải dùng sớm, đúng loại, đủ liều, dựa vào kháng sinh đồ, khi chưa có kháng sinh đồ thì dựa vào yếu tố dịch tễ, diễn tiến lâm sàng của bệnh,kinh nghiệm của thầy thuốc, thể trạng bệnh nhân và phải theo dõi đáp ứng điều trị để có hướng xử trí kịp thời.

3.1. Do phế cầu, liên cầu

Kháng sinh chính hiện nay vẫn là: Penicilline G. 500.000-1000.000 đv x 4 lần/ngày TB. Nếu nặng có thể tăng liều và chuyền tĩnh mạch. Có thể dùng Cefapirine (Cefaloject) 0,5g-1g mỗi 8-12 giờ.

Nếu bị dị ứng với Penicilline thì dùng loại Macrolide như Erythromycine tiêm hay uống 2g/ngày chia 4 lần hay Roxythromycine 150mg x 2 lần/ngày.

3.2. Do tụ cầu vàng

* Tụ cầu vàng nhạy cảm với Methicilline, có thể dùng Cefapirine hay nhóm Aminoside như Amikacine 15mg/kg/ngày tiêm bắp hoặc nhóm Fluoroquinolone như ofloxacine chuyền tĩnh mạch hay uống 400mg/ngày chia 2 lần.

* Tụ cầu vàng đề kháng Methicilline

Có thể dùng Cefalosporine thế hệ III: như Cefotaxime (Claforan, Cefomic) 3g/ngày chia 3 lần hay Vancomycin 30-50mg/kg/ngày tiêm tĩnh mạch chia 3 lần.

Nếu nặng có thể phối hợp với Amikacine.

3.3. Do Hemophillus Influenza

Có thế dùng:

– Ampicillne 2-3g/ngày uống chia 3 lần hay TB.hoặc Ofloxacine hoặc Cefapirine

– Gentamycin 3-4mg/kg/ngày TB chia 2-3 lần

3.4. Do Mycoplasma, Legionella

Có thể dùng như điều trị Hemophilus influenzae.

3.5. Do Klebsiella pneumoniae

Thường điều tri phối hợp Cefalosporine thế hệ III với Amikacine.

3.6. Do vi khuẩn kỵ khí

– Penicilin G hay Metronidazol 1-2 g/24 giờ. Hoặc Cefalosporine II, III

3.7. Do hóa chất Kháng sinh thường dùng là

– Pénicilin G phối hợp với Prednisone 5mg x 6 – 8v/ngày.

Các trường hợp viêm phổi có biến chứng phải điều trị kéo dài cho đến khi triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trở về bình thường (xét nghiệm nhiều lần) để tránh biến chứng và tái phát.

PHÒNG BỆNH

Viêm phổi là một trong những bệnh nhiễm trùng đường hô hấp dưới phổ biến nhất, ngày nay nhờ vào nhiều loại kháng sinh mới, mạnh nên tỷ lệ biến chứng và tử vong giảm nhiều. Tuy nhiên vẫn có trường hợp xảy ra thành những vụ dịch nhất là do virus. Để đề phòng bệnh, giảm biến chứng phải nâng cao thể trạng, giữ ấm trong mùa lạnh, loại bỏ những yếu làm dễ như môi trường không trong sạch, không hút thuốc lá, phòng ngừa và điều trị sớm, tận gốc các nhiễm trùng ở đường hô hấp trên, các đợt cấp của bệnh phổi mạn tính, điều trị sớm và theo dõi sát giai đoạn sớm của nhiễm trùng đường hô hấp, tránh lây lan.

Ngày nay đã có một số vaccin của nhiều loại virus đã được xử dụng và cả một số thuốc chống virus.