Top 6 # Triệu Chứng Bệnh Sán Lá Gan Lớn Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Nguyên Nhân Và Triệu Chứng Bệnh Sán Lá Gan Lớn

Tác nhân dẫn tới người mắc bệnh là do ăn sống các loại rau mọc dưới nước hoặc uống nước có nhiễm ấu trùng Sán lá gan lớn chưa nấu chín. có hai loài đó là: Fasciola hepatica và Fasciola gigantica.

Phương thức lây nhiễm bệnh:

Ở người, sán , có thể trong cơ, dưới da… Sán trưởng thành đẻ trứng theo đường mật → ruột → ra ngoài.

Trứng sán khi xuống nước, nở ra ấu trùng lông và ký sinh trong ốc, phát triển thành ấu trùng đuôi → rời khỏi ốc và bám vào các loại rau mọc dưới nước tạo nang trùng hoặc bơi tự do trong nước.

Người hoặc trâu bò ăn phải thực vật thủy sinh hoặc uống phải nước lã có ấu trùng sẽ bị nhiễm Sán lá gan lớn.

Phân bố: Fasciola hepatica phân bố chủ yếu ở Châu Âu, Fasciola gigantica ở Châu Á.

Triệu chứng toàn thân: mệt mỏi, có sốt hoặc không, thiếu máu da xanh, niêm mạc nhợt…

Đau bụng, đầy bụng, rối loạn tiêu hoá, buồn nôn.

Gan to hoặc bình thường, mật độ mềm, ấn đau và có dấu hiệu ấn kẽ liên sườn.

Trong máu bạch cầu ái toan tăng cao.

Siêu âm thấy gan có những ổ âm hỗn hợp hình tổ o­ng hoặc có hình ảnh tụ dịch dưới bao gan.

Có kháng thể kháng Sán lá gan lớn.

Xét nghiệm phân tìm trứng sán.

Lâm sàng: có một hoặc nhiều triệu chứng nêu trên.

Cận lâm sàng: bạch cầu ái toan tăng cao trong máu.

Thử ELISA để phát hiện kháng thể.

Xét nghiêm phân hoặc dịch mật tìm trứng sán.

Điều trị bệnh: thuốc đặc hiệu Triclabendazole.

Không ăn sống các loại rau mọc ở dưới nước, không uống nước lã. Khi nghi ngờ nhiễm Sán lá gan lớn phải đi khám bệnh để được chẩn đoán và điều trị kịp thời.

Liên hệ khám bệnh giun sán tại Phòng khám Chuyên khoa Ký sinh trùng 76 Trần Tuấn Khải, phường 5, quận 5, TP. HCM. Thời gian mở của từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều, hoạt động từ thứ 2 đến thứ 7, nghỉ ngày CN. Phòng khám do các bác sĩ Chuyên khoa Ký sinh trùng giàu kinh nghiệm trực tiếp khám và điều trị bệnh giún, đảm bảo mọi quyền lợi cho người bệnh./.

PHÒNG KHÁM KÝ SINH TRÙNG

Chuyên Gia Nói Về Triệu Chứng Của Bệnh Sán Lá Gan Lớn

Về hình thể: sán lá gan lớn có hình chiếc lá dẹt, bở mỏng, kích thước khoảng dài khoảng 30mm rộng khoảng 10mm. Màu sắc của sán lá gan thường màu trắng, hồng, đỏ, xám.

Sán lá gan hiện được phát hiện trên 50 tỉnh thành trên cả nước và ngày càng có xu hướng tăng mạnh

Về sinh học: sán lá gan là loài lưỡng tính, cư trú trong gan và chết tại đó. Sán non có thể di chuyển lạc chỗ và không trưởng thành. Sán đẻ trứng, trứng xuống ruột và đi ra ngoài môi trường theo phân. Khi trứng rơi xuống nước gặp nhiệt độ thích hợp khoảng 20 độ, mất khoảng 20 ngày ấu trùng lông sẽ ký sinh tại ốc. Sau khi hình thành ấu trùng đuôi sau khoảng 7 tuần, chúng rời khỏi ốc và bám vào thực vật thủy sinh hoặc bơi tự do. Người hoặc động vật ăn phải thực vật thủy sinh chứa ấu trùng này hoặc uống nước lã chứa chúng sẽ mắc bệnh nhiễm sán lá gan lớn.

Sau khi xâm nhập vào vật chủ qua đường miêng, khoảng 1 giờ sau chúng thoát kén xuyên qua thành ruột xuất hiện trong ổ bụng vào gan. Sau 6 ngày chúng phát triển thành sán trưởng thành và có thể ký sinh trong đường mật. Thời gian từ khi nhiễm ấu trùng nang sán đến khi xuất hiện trứng trong phân tùy theo vật chủ mà chúng ký sinh. Ở động vật là khoảng 2 tháng còn ở người khoảng 4 tháng. Tuổi thọ của sán lá gan thường kéo dài tới 10 năm và nếu sán càng nhiều thì thời gian trưởng thành của chúng càng dài. Chúng có thể ký sinh ở những bộ phận khác ngoài gan như tiêu hóa, tim, mạch máu, ổ bụng, cơ, xương, não, phổi thậm chí cả ở dưới da.

Đặc điểm của sán lá gan lớn

Tùy vào số lượng sán bị nhiễm và thời gian sán ký sinh trên cơ thể mà mỗi bệnh nhân có các phản ứng khác nhau:

Điều trị và phòng bệnh

Khi sán xuyên qua ruột gây xuất huyết và viêm đường tiêu hóa, rối loạn tiêu hóa nhưng có thể có triệu chứng không rõ rệt

Sán chui vào gan gây phá hủy tổ chức gan như chảy máu, viêm gan, phản ứng miễn dịch. Sán cư trú tại gan, khi chúng chết xuất hiện tổ chức hoại tử, tổn thương gan để lại sẹo. Bệnh nhân có thể cảm thấy đau hạ sườn phải, bụng khó tiêu, sốt, sụt cân đột ngột, đau vùng thượng vị,…

Sán chui vào mật, cư trú tại mật gây nên tình trạng xơ hóa, chảy máu, giãn rộng, bệnh nhân cũng cảm thấy đau bụng âm ỉ, khó tiêu,…

Sán di chuyển ra ngoài gan như chui đến khớp gối, dưới da gây áp xe khu vực.

Bác sĩ tư vấn: Điều trị sán lá gan lớn có nhiều loại thuốc đặc hiệu như: hexachloroparaxylol, mebendazole, bithionol, emetine, niclorofan,… nhưng hiện nay thuốc hiệu quả nhất đối với sán lá gan lớn là triclabendazole kể cả khi bệnh ở thể cấp tính hoặc mạn tính. Bệnh nhân có thể dùng liều duy nhất triclabendazole 10 mg/kg cân nặng hoặc 2 liều triclabendazole 10 mg/kg cân nặng sẽ cho kết quả khỏi bệnh khả quan.

Điều trị và phòng bệnh

Bệnh Sán Lá Gan Ở Trâu Bò

Bệnh sán lá gan ở trâu bò

Tin đăng ngày: 18/3/2020 – Xem: 493

Bệnh sán lá gan là một bệnh khá phổ biến ở trâu, bò. Bệnh thường ở thể mãn tính nên chỉ làm cho trâu, bò gầy yếu, chậm lớn mà không gây ốm cấp tính hoặc quỵ ngã ngay. Ở nước ta, trâu bò bị nhiễm sán lá gan quanh năm và xảy ra ở tất cả các lứa tuổi. Tuy nhiên, hiện nay người chăn nuôi vẫn chưa quan tâm nhiều đến căn bệnh này và chưa có các biện pháp phòng chống bệnh cho đàn trâu, bò một cách có hiệu quả.

Để giúp các hộ chăn nuôi trâu, bò chủ động nắm bắt và xử lý tốt bệnh sán lá gan, chúng tôi xin nêu cụ thể về nguyên nhân, triệu chứng, biện pháp phòng và điều trị bệnh này như sau:*Nguyên nhân: Bệnh sán lá gan ở trâu, bò do hai loài sán lá: Fasciola gigantica và Fasciola hepatica gây ra.– Hình thái: Sán Fasciola gigantica: Cơ thể dẹp, hình lá, màu đỏ nâu; có 2 giác bám: Giác miệng và giác bụng. Sán Fasciola hepatica: hình dạng và màu sắc giống loài trên nhưng ngắn hơn, sau đầu có hai vai phình rộng ra.– Vòng đời: Sán lá trưởng thành sống trong các ống dẫn mật, đẻ trứng. Trứng theo ống dẫn mật về ruột rồi thải ra ngoài theo phân. Khi trứng gặp được các điều kiện thuận lợi như: rơi vào nước, thời tiết nóng ẩm thì trứng sẽ nở thành mao ấu, di chuyển trong nước. Mao ấu tìm và chui vào cơ thể ký chủ trung gian là các loài ốc nhỏ, không có nắp, sống phổ biến ở ao hồ, mương máng, ruộng trũng. Trong ốc mao ấu phát triển thành vĩ ấu và chui ra khỏi ốc. Vĩ ấu ra ngoài tự nhiên, rụng đuôi, biến thành “kén” tức ấu trùng cảm nhiễm. Kén trôi nổi trong nước hoặc bám vào các loài cây thủy sinh, khi gia súc uống nước, ăn phải cỏ, rau có kén sẽ nhiễm sán lá gan. Vào cơ thể ký chủ màng kén bị phân hủy và giải phóng ấu trùng. Ấu trùng tiếp tục di chuyển đến ống dẫn mật, ở lại đó và phát triển đến giai đoạn trưởng thành. Thời gian từ khi trâu, bò nuốt phải kén đến khi thành sán trưởng thành khoảng 3 tháng. Một sán lá trưởng thành có thể sống trong ống dẫn mật của gan khoảng 3 – 11 năm.

*Đặc điểm dịch tễ: Bệnh xảy ra ở tất cả các loài nhai lại. Trâu, bò bị nhiễm bệnh nặng hơn và ở mọi lứa tuổi. Tỷ lệ trâu, bò nhiễm bệnh ở miền núi khoảng 30 – 35 %, vùng đồng bằng khoảng 40 – 70 %. Bê, nghé non bị bội nhiễm sẽ phát bệnh ở thể cấp tính. Với điều kiện khí hậu ở nước ta, bệnh có thể xảy ra quanh năm. Hầu hết tất cả các trâu, bò nhập nội đều mắc bệnh sán lá gan, kể cả bò sữa. Trâu, bò nhiễm sán lá gan khi gặp điều kiện không thuận lợi như: làm việc nặng, thiếu thức ăn thô xanh, thời tiết lạnh vào vụ Đông – Xuân sẽ dễ phát bệnh và người chăn nuôi thường nhầm lẫn là bệnh truyền nhiễm.*Triệu chứng:– Thể cấp tính: Trâu, bò bỏ ăn, chướng hơi dạ cỏ, sau đó ỉa chảy dữ dội, phân lỏng màu vàng xám, mùi tanh. Chỉ vài ngày sau, súc vật bệnh nằm bệt không đi lại được, nếu không được điều trị kịp thời con vật có thể chết trong tình trạng mất nước, rối loạn điện giải và kiệt sức. Hiện tượng này thường xảy ra ở bê, nghé dưới 1 năm tuổi.– Thể mãn tính: Trâu, bò bị bệnh sẽ gầy dần, cơ thể suy nhược, ăn ít, niêm mạc nhợt nhạt, lông xù, dễ rụng, thường thủy thũng ở mi mắt, yếm ngực, nhai lại yếu, thiếu máu, chướng bụng nhẹ, ỉa chảy kéo dài, có khi ỉa táo bón, đôi khi có triệu chứng thần kinh. Gia súc cái mất dần khả năng sinh sản và cho sữa. Trâu, bò cho sữa bị bệnh thì lượng sữa giảm tới 20 – 50%. Trâu, bò có thể chết do kiệt sức. Người chăn nuôi cũng cần phân biệt các triệu chứng trên với bệnh ký sinh trùng đường máu đó là: trâu bò mắc bệnh ký sinh trùng đường máu cũng có các biểu hiện như: gầy yếu, thiếu máu, sản lượng sữa giảm, hoàng đản, tiêu chảy. Nhưng bệnh ký sinh trùng đường máu trâu, bò thường sốt 40 – 420C, khi sốt cao thường thể hiện triệu chứng thần kinh: quay cuồng, đi vòng tròn, run rẩy từng cơn. Trong khi bệnh sán lá gan trâu, bò thường ỉa chảy kéo dài, viêm ruột, phân lỏng xám có mùi tanh. *Bệnh lý: Sán non trong quá trình di hành làm tổn thương mô gan, viêm gan nhiễm khuẩn, gây hiện tượng viêm túi mật, tắc ống dẫn mật, tổn thương niêm mạc ruột non. Sán lá trưởng thành sống trong các ống dẫn mật, thường xuyên kích thích niêm mạc ống mật, mật bị ứ lại thấm vào máu gây chứng hoàng đản. Ngoài việc gây tổn thương gan, sán trưởng thành hút chất dinh dưỡng, hút máu trâu, bò để lớn, đồng thời tiết độc tố gây rối loạn tiêu hóa, viêm ruột, làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe trâu, bò và dẫn đến tử vong do kiệt sức.*Phòng bệnh: Người chăn nuôi cần làm tốt công tác vệ sinh thú y, tiêu độc khử trùng chuồng trại; diệt mầm bệnh ở trong môi trường tự nhiên: ủ phân để diệt trứng sán lá gan. Định kỳ kỳ tẩy sán lá gan 2 lần/năm cho toàn đàn trâu, bò vào tháng 4 và tháng 8 hàng năm. Kết hợp có các biện pháp diệt ốc là ký chủ trung gian truyền lây bệnh này như: Dùng sulfat đồng (CuSO4) nồng độ 3 – 4‰ phun trên đồng cỏ và cây thủy sinh để diệt ốc, cắt đứt giai đoạn phát triển của sán lá ở thời kỳ ấu trùng hoặc nuôi vịt và cá để diệt ốc. Khi cắt cỏ cho trâu bò ăn, không cắt phần chìm trong nước, cỏ thu cắt từ vùng trũng, ngập nước cần được rửa sạch. Không nên chăn thả trâu bò tại các vùng đầm lầy, bờ kênh, mương, khu vực đọng nước. Đối với trâu bò mới nhập đàn cần kiểm soát tốt nguồn thức ăn, nước uống, những vùng bị nhiễm nặng không chăn thả tự do để tránh nguy cơ nhiễm sán lá gan. Đồng thời phải theo dõi, kiểm tra và tẩy sán lá gan kịp thời cho những con đang bị mắc bệnh. Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt trâu, bò để nâng cao thể trọng và sức đề kháng với bệnh sán lá gan và các bệnh giun sán khác.*Điều trị: Khi phát hiện trâu bò mắc bệnh người chăn nuôi cần tiến hành điều trị kịp thời cho con vật bằng một trong các loại thuốc sau: – Sử dụng thuốc Fasinex: Liều dùng 12mg/kg thể trọng. Cách dùng: cho uống, hoặc trộn vào thức ăn. Thuốc này có hiệu quả rất tốt đối với cả sán lá gan dạng non và trưởng thành hoặc đang di hành trong nhu mô gan. – Sử dụng thuốc Dertil – B của Hanvet, dạng viên nén tròn, có màu hồng. Liều dùng 1 viên dùng cho 50 kg thể trọng. Tốt nhất là cho trâu, bò uống vào buổi sáng, uống xong có thể cho trâu, bò đi chăn thả bình thường. Có thể dùng cỏ, lá chuối non để gói viên thuốc và đưa sâu vào miệng cho con vật nuốt ăn cùng. Thuốc diệt sán lá gan trưởng thành, sán lá non đang di hành trong nhu mô gan. – Sử dụng thuốc Benvet 600 của công ty thuốc thú y xanh Việt Nam, dạng viên nén bầu dục, màu trắng. Liều dùng: 1 viên dùng cho 60 kg thể trọng, cho uống vào sáng sớm trước khi đi chăn thả.Ngoài ra, có thể tẩy sán lá gan cho trâu, bò bằng thuốc Fasciolid, Tolzan F, Okazan.Trong quá trình dùng thuốc điều trị bệnh cần sử dụng thêm thuốc bồi bổ, tăng sức đề kháng cho trâu, bò như: VTM C, B1, B12 tiêm theo liệu trình từ 3 – 5 ngày và có chế độ dinh dưỡng tốt để nhanh hồi phục sức khỏe.Có thể nói phát triển chăn nuôi đàn gia súc nhai lại nói chung và trâu, bò nói riêng đang có nhiều ưu điểm và lợi thế so với động vật dạ dày đơn đó là nhờ vào khu hệ vi sinh vật dạ cỏ mà giúp chúng có thể sử dụng và chuyển hóa những nguồn thức ăn thô, nhiều chất xơ và khó tiêu hóa thành những sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và kinh tế như thịt, sữa. Vì vậy, trâu bò là đối tượng vật nuôi được nhiều người chăn nuôi lựa chọn để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo có tính bền vững và hiệu quả. Để khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế của loại vật nuôi này, người chăn nuôi ngoài việc chọn giống có năng suất cao, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, tiêm phòng đầy đủ các bệnh truyền nhiễm thì cần quan tâm xử lý tốt các bệnh do ký sinh trùng gây ra, trong đó có bệnh bệnh sán lá gan sẽ giúp vật nuôi sống khỏe mạnh, sinh trưởng tốt và cho hiệu quả kinh tế cao nhất./

Nguồn:

Từ khóa:

Chăn nuôi khác:

Nhận Biết Bệnh Sán Lá Gan Ở Gia Súc

Bệnh sán lá gan xảy ra ở hầu hết các loài gia súc và có thể lây sang người qua đường ăn uống. Vào giai đoạn chuyển mùa, thời tiết thay đổi đột ngột từ nóng sang lạnh… là điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển.

Bệnh do 2 loài sán có tên là Fasciolagigantica và Fasciola heptica gây ra, chúng ký sinh ở gan, mật và tác động xấu đến vật nuôi.

Vòng đời của sán lá gan đi qua hai loại ký chủ là động vật máu nóng như trâu, bò, dê… và ký chủ trung gian là các loài ốc nước ngọt (lymnae). Sán trưởng thành thải trứng qua phân, dưới điều kiện thích hợp của môi trường (nhiệt độ, ẩm độ) trứng phát triển thành ấu trùng (gọi là miracidium). Miracidium sẽ chui vào ốc ký chủ trung gian là các loài ốc lymnae và sinh sản trong ốc sau đó ra khỏi ốc, bơi lội trong nước và bám vào các cây thủy sinh hình thành kén bao bọc bên ngoài. Gia súc, người ăn phải rau, cỏ dính kén vào đường tiêu hóa sẽ chui qua vách ruột non vào xoang bụng, xâm nhập vào gan và sống ở gan trong 6 – 7 tuần trước khi phát triển thành sán lá trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật. Chu kỳ kéo dài 3 – 4 tháng từ lúc trâu bò ăn phải kén đến khi sán lá gan trưởng thành. Một sán lá trưởng thành có thể sống trong ống dẫn mật của gan khoảng 3 – 11 năm.

Triệu chứng bệnh sán lá gan ở gia súc

Thể mãn tính: Gia súc bị bệnh có cơ thể gầy còm, suy nhược, thiếu máu, bị tiêu chảy kéo dài làm cho chúng mất dần khả năng cày kéo và khả năng sinh sản.

Thể cấp tính: Gia súc bị bệnh bỏ ăn, sau đó tiêu chảy dữ dội, phân loãng màu xám, có mùi tanh. Sau vài ngày mắc bệnh, chúng yếu dần rồi nằm một chỗ, không đi được và chết do mất nước, kiệt sức. Thể bệnh này thường gặp ở bê, nghé dưới 6 tháng tuổi do bị nhiễm thứ phát các vi khuẩn gây bệnh có sẵn trong dạ dày và ruột như Salmonella, E.coli… Cũng có một số trường hợp, trâu, bò chết cấp tính mà không biểu hiệu triệu chứng gì bên ngoài.

Đặc điểm dịch tễ

Bệnh xảy ra ở tất cả các loài nhai lại, kể cả người. Trâu bò bị nhiễm bệnh nặng hơn và ở mọi lứa tuổi đều bị. Tỷ lệ trâu, bò nhiễm bệnh ở miền núi khoảng 30 – 35 %, vùng đồng bằng khoảng 40 – 70 %.

Bê, nghé non bị bội nhiễm sẽ phát bệnh ở thể cấp tính. Với điều kiện khí hậu ở nước ta, bệnh có thể xảy ra quanh năm. Bởi, thời tiết ấm áp và ẩm ướt trên mặt đất làm cho ốc ký chủ phát triển mạnh, từ đó làm vật trung gian truyền ấu trùng sán cho gia súc. Hầu hết tất cả các trâu bò nhập nội đều mắc bệnh sán lá gan, kể cả bò sữa. Trâu bò nhiễm sán khi gặp điều kiện không thuận lợi vào vụ đông và đầu vụ xuân (làm việc nặng, thời tiết lạnh, thiếu thức ăn xanh) sẽ phát bệnh hàng loạt dẫn đến chết, vì thế mà người nuôi thường nhầm lẫn là bệnh truyền nhiễm.

Chẩn đoán

Chẩn đoán lâm sàng: Phương pháp này thường gặp khó khăn do các dấu hiệu thường không điển hình. Người nuôi có thể dựa vào một số triệu chứng như: Hiện tượng thiếu máu đi cùng với tính vô cảm, ăn kém ngon miệng, gầy, da hơi vàng; Xuất hiện ỉa chảy và cuối cùng, trong những trường hợp trầm trọng, phát triển phù thũng và gia súc yếu dần. Khi sờ vào sườn bên phải gây ra cảm giác đau rõ ràng.

Kiểm tra phân: Nhằm phát hiện những trứng đặc trưng của sán lá gan trong phân. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ có tác dụng trong trường hợp gia súc bị bệnh ở thể mãn tính. Hơn nữa, việc sản sinh ra trứng ngắt quãng, không liên tục, tùy thuộc vào việc thải dịch từ túi mật và sinh học của ký sinh trùng. Vì vậy, nên lặp lại kiểm tra để chẩn đoán bệnh theo cách này và lấy mẫu đại diện một số gia súc trong cùng một đàn.

Kiểm tra huyết thanh học: Gần đây những kỹ thuật huyết thanh học đã được phát triển và áp dụng để chẩn đoán, nghiên cứu dịch tễ bệnh sán lá gan. Chủ yếu là xét nghiệm ELISA để phát hiện các kháng thể lưu hành. Phương pháp này giúp phát hiện được gia súc bị nhiễm bệnh trong thời kỳ trước khi sán trưởng thành, trước khi trứng được bài tiết ra và khả năng kiểm tra một số lượng mẫu lớn. Một số khó khăn của phương pháp này là chi phí, thiết bị cần thiết, thiếu độ mẫn cảm và sự tồn lưu kháng thể sau khi điều trị.

Chẩn đoán qua việc mổ khám: Sự có mặt của các sán lá gan trong ống mật, các tổn thương do các sán lá non di chuyển gây ra là những tổn thương đặc trưng của bệnh sán lá gan.

BiotechVET tổng hợp