Top 9 # Nêu Triệu Chứng Của Bệnh Kiết Lỵ Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Nguyên Nhân Và Triệu Chứng Của Bệnh Kiết Lỵ

Bệnh kiết lỵ là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già do Entamoeba histolyca hoặc do vi khuẩn Shigella. Hầu hết nhiễm trùng ở dạng mang mầm bệnh không triệu chứng, một số biểu hiện ở dạng tiêu chảy nhẹ kéo dài, hoặc trầm trọng hơn là lỵ tối cấp. Biểu hiện lâm sàng ngoài ruột thường là áp xe gan, có thể vỡ vào màng bụng, màng phổi, màng ngoài tim.

Nguyên nhân gây bệnh kiết lỵ đó là do vi khuẩn shigella gây viêm toàn bộ đại tràng và trực tràng. Bệnh thường lây qua phân. Người thân trong gia đình bị bệnh, đi vệ sinh không rửa tay, lấy thực phẩm cho bé ăn hoặc mua thực phẩm đường phố có nhiễm vi khuẩn shigella”.

Bên cạnh đó, trong nhà nuôi chó, mèo, phân chó, mèo cũng chứa vi khuẩn gây bệnh cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh. Trẻ thích chơi với súc vật, sờ vào lông, bò ra nền nhà rồi đưa tay vào miệng…Ruồi nhặng cũng là một trong những trung gian truyền bệnh, dẫn đến bệnh kiết lỵ ở người.

Thời gian ủ bệnh của bệnh lỵ thường từ 1 – 7 ngày, sau đó sẽ phát bệnh một cách đột ngột, với 2 hội chứng: nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ.

Hội chứng nhiễm khuẩn gồm các triệu chứng: sốt cao 38 – 39 o C, rét run, nhức đầu, mệt mỏi, đau lưng, đau khớp, ở trẻ em có thể có cơn co giật, chán ăn, khát nước, đắng miệng, buồn nôn hoặc nôn.

Hội chứng lỵ. gồm các triệu chứng: đau bụng, ban đầu đau âm ỉ quanh rốn,sau đó lan ra khắp bụng, cuối cùng là những cơn đau quặn bụng ở hố chậu trái. Các cơn đau quặn bụng làm bệnh nhân mót rặn muốn đi đại tiện ngay. Mới đầu phân sệt, sau loãng, rất thối, lẫn với nhầy và máu. Hoặc phân nhầy nhiều, thường đục nhờ nhờ, có khi phân vàng đục như mủ, máu sẫm như máu cá, nhầy và máu hòa loãng với nhau không có độ bám dính. Hội chứng lỵ có thể diễn ra từ 5 – 10 ngày hoặc hơn.

Để phòng ngừa bệnh kiết lỵ người bệnh cần:

– Rửa sạch tay trước khi ăn, ăn chín, uống sôi.

– Rửa sạch rau sống, thức ăn cần đậy kỹ tránh ruồi nhặn.

– Vệ sinh môi trường ở sạch sẽ. Ðặc biệt nơi sống tập thể và người phục vụ ăn uống, cấp dưỡng, nuôi dạy trẻ phải sạch sẽ.

– Hạn chế các loại đồ uống có ga, đồ uống chứa cồn…

– Theo dõi tình trạng sức khỏe và tái khám định kỳ theo lịch hẹn của bác sĩ nhằm điều chỉnh đơn thuốc chữa bệnh phù hợp.

Táo Bón Và Kiết Lỵ Triệu Chứng

Bình thường số lần đại tiện từ một đến hai lần trong một ngày, phân mềm đóng thành khuôn, lượng phân từ 200g đến 400g. khi bị táo bón thì quá hai ngày mới đại tiện, mỗi lần đại tiện rất khó hoặc lượng phân mỏi lần ra ít hơn bình thường hoặc khô cứng.

Bình thường thành phần nước có trong phân là 75%; phân khô không bón, thành phần nước <= 70%.

Táo bón do rất nhiều yếu tố khác nhau gây nên, có thể do những tổn thương thực thể, do phản xạ, do thói quen, do chế độ ăn uống… để giải thích các nguyên nhân,ta cần nhắc lại sơ bộ quá trình tạo thành phân và thải tiết phân:

Qúa trình thải tiết phân bình thường.

Thức ăn sau khi được tiêu hoá và hấp thụ ở ruột non, tới đại tràng phần lớn nước được hấp thụ lại phân khô và đóng thành khuôn sẽ đi xuống đại tràng sicma, được tích chứa ở đó. Khi lượng phân nhiều đến một mức nàdo đó sẽ đi xuống trực tràng và kích thích niêm mạc trực tràng, gây nên phản xạ mót rặn: co cơ nâng hậu môn, mở cơ vòng hậu môn, đại tràng co bóp mạnh, đồng thời cơ hoành và các cơ thành bụng co, làm tăng áp lực trong ổ bụng; tất cả dẫn đến hiện tượng tống phân ra ngoài.

Đại tiện vừa là một phản xạ tự động vừa là một phản xạ có ý thức; để điều hoà sự hoạt động của đại tiện, có sự tham gia của dây thần kinh X và của hệ giao cảm.

Như vậy, táo bón có thể do: những cản trở cơ giới ngăn sự lưu thông của phân (khối u,hen…; đại tràng hút lại quá nhiều nước làm phân khô; cơ ở đại tràng, trực tràng và hậu môn bị liệt hoặc quá tăng trương lực; rối loạn phản xạ và rối sự điều hoà thần kinh thực vật.

Triệu chứng.

Đi đại tiện khó khăn, nhiều ngày mới đi một lần, mỗi lần đại tiện phải rặn nhiều, phải vận dụng nhiều cơ thành bụng và cơ hoành để tống phân ra ngoài. phân rắn thành cục, mật độ cứng có thể ính theo máu tươi o cọ xát vào niêm mạc hậu môn làm rách những mạch máu nhỏ, có khi dính theo những chất nhầy niêm dịch của đại tràng, trực tràng.

Nếu táo bón kéo dài có thể gây nên những biến loạn toàn thân như nhức đầu, đánh trống ngực, thay đổi tính nết (hay cáu gắt…).

khám người bệnh ta có thể thấy nhiều cục phân cứng lổn nhổn ở vùng đại tràng xuống và đại tràng sichma, thăm trực tràng có khi sờ thấy phân rất cứng.

Nguyên nhân

Như trên ta đã biết, táo bón có thể do rất nhiều nguyên nhân gây nên, tùy theo mỗi loại nguyên nhân khác nhau, táo bón sẽ kết hợp với các triệu chứng khác nhau, do đó trước một người bị táo bón muốn tìm nguyên nhân cần phải:

Hỏi kỹ người đó về tiền sử nghề nghiệp, thói quen, chế độ làm việc và ăn uống; rối loạn chức năng của tiêu hoá và toàn thân.

Thăm khám bộ máy tiêu hoá và toàn than, chú ý thăm trực tràng.

Tùy theo nguyên nhân và điều kiện làm xét nghiệm cần thiết như: xét nghiệm phân, soi trực tràng chụp khung đại tràng có thuốc cản quang.

Ta có thể chia nguyên nhân tào bón làm hai loại chính.

Táo bón chức năng.

Khi không có tổn thương ở đại tràng, trực tràng và hậu môn, loại nguyên nhân này rất hay gặp.

Táo bón trong thời gian ngắn:

Những bệnh toàn thân: tình trạng nhiễm khuẩn sốt nhiều, sau phẫu thuật mất nhiều máu.. những nguyên nhân này gây mất nước trong cơ thể do đó phân khô và táo.

Do thuốc: một số thuốc làm giảm nhu động của ruột hoặc làm phân khô lại như: thuốc phiện tanin, thuốc an thần, thuốc có chất sắt.

Do phản xạ: những cơn đau ữ dội ở bụng làm mất phản xạ đại tiện cơn đau quặn thận, quặn gan.

Táo bón mạn tính:

Do chế độ ăn uống: ăn ít ra, uống ít nước, ăn sữa bò (trẻ còn ăn sữa), thiếu vitamin B1.

Do nghề nghiệp và thói quen: những nghề phải ngồi nhiều ít hoạt động, nghề tiếp xúc với chì, ngộ độc chì mạn tính, ảnh hưởng đến sự hoạt động của ruột. Do thói quen không đại tiện đúng giờ giấc, quên đại tiện làm rối loạn phản xạ mót rặn.

Do suy nhươc: những người già, suy nhược, mắc bệnh mạn tính phải nằm lâu. Tất cả những nguyên nhân kể trên là nhu động ruột và trương lực các cơ thành bụng giảm gây nên táo bón.

Rối loạn tâm thần: lo lắng, buồn rầu không để ý đến đến đại tiện, mất phản xạ mót rặn…

Táo bón do tổn thương thực thể:

Tổn thương ở trong ống tiêu hoá:

Những cản trở đường đi của phân: những khối u của trực tràng, đại tràng… ngoài ấu hiệu táo bón có thể đại tiện ra mũi, máu, có hội chứng bán tắc ruột, thăm trực tràng, soi trực tràng và chụp đại tràng tháy khối u.

Những tổn thương bẫm sinh của đại tràng: bệnh đại tràng ài, đại tràng lớn, phân tích chứa lạitrong đại tràng nhiều và bị lậu nên bị hút nước lại nhiều làm cho phân khô và táo bón. Ta có thể xác định bằng cách chụp khung đại tràng.

Viêm đại tràng mạn tính: nhất là có thể co thắt và đau quặn bụng từng cơn.

Những tổn thương của trực tràng và hậu môn

Trĩ và nứt hậu môn: mỗi lần đại tiện rất đau, người bệnh không giám đại tiệnvà gây nên táo bón.

Hẹp trực tràng và hậu môn, di chứng của bệnh Nicolas Favre: Đại tiện rất khó, phân nhỏ.

Tổn thương ở ngoài ống tiêu hoá.

Từ ngoài đè vào làm cản trở đại tiện:

Phụ nữ có thai, nhất là những tháng cuối, thai to đè vào trực tràng.

Khối u của cổ tử cung, khối u tiền liệt tuyến, khối u của các phần tiểu khung.

Các dây chằng dính sau mổ, hay sau viêm xung quanh đại, trực tràng làm co hẹp, đại trực tràng.

Tổn thương ở não, màng não

Hội chứng màng não: táo bón do rối loạn thần kinh thực vật.

Tăng áp lực sọ não: cũng giống như hội chứng màng não.

Tổn thương ở tuỵ: táo bón do mất phản xạ mót rặn, người bệnh không đại tiện được.

HỘI CHỨNG KIẾT LỴ

Kiết lỵ là một thể đặc biệt của táo bón, một hội chứng tiêuhoá gồm những rối loạn gồm những rối loạn về đại tiện và những cơn đau đặc biệt. Nguyên nhân phần lớn là do những tổn thương thực thể ở đại tràng và trực tràng gây nên.

Triệu chứng

Rối loạn về đại tiện. Người bệnh đại tiện rất nhiều lần, mỗi lần ra rất ít phân, có khi không có phân, mót rặn nhiều nhưng rất khó đại tiện. Vì vậy, ta có thể coi kiết lỵ là một thể đặc biệt của táo bón.

Tính chất của phân. Phân thường rất ít, lẫn với chất nhầy niêm dịch mủ nhầy, máu tươi, máu lẫn niêm dịch, bọt và hơi; có khi chỉ có máu và niêm dịch không có phân.

Đau và mót rặn: một lần đại tiện thấy đau quặn từng cơn ở dọc theo khung đại tràng, nhất là vùng đại tràng, sichma và trực tràng, kèm theo đau có phản xạ mót rặn, đau buốt mót rặn ở hậu môn bắt người bệnh phải đại tiện ngay. Sau khi đại tiện thì đau và mót rặn hết, trong một ngày có rất nhiều cơn, gây nên đại tiện nhiều lần.

Các triệu chứng khác.

Triệu Chứng Và Cách Phòng Ngừa Bệnh Kiết Lỵ

Nguyên nhân bệnh kiết lỵ là do vi khuẩn shigella gây viêm toàn bộ đại tràng và trực tràng. Bệnh thường lây truyền qua phân. Người thân trong gia đình bị bệnh, đi cầu không rửa tay, lấy th ực ph ẩm cho bé ăn hoặc mua thực phẩm đường phố có nhiễm shigella… TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH KIẾT LỴ:

Người bệnh có thể sốt nhẹ, có thể không nhưng chủ yếu là đau quặn bụng, mót rặn. Phân ban đầu còn lỏng, sau toàn nhầy và máu, ngày đi 5-10 lần. Ðau bụng thường ở manh tràng ( hố chậu phải, dễ lầm với viêm ruột thừa) dọc theo khung đại tràng ( dễ lầm với loét dạ dày ). Tiêu phân nhày máu, đôi khi xen kẽ với tiêu lỏng, số lượng không nhiều, nhưng đi đại tiện nhiều lần trong ngày. Mót rặn : đau rát hậu môn kèm theo cảm giác đòi hỏi đại tiện một cách bức thiết. Sốt cao nếu là do shigella.

BIẾN CHỨNG CỦA BỆNH KIẾT LỴ:

Thủng ruột.

Xuất huyết tiêu hóa.

Lồng ruột.

Viêm loét đại tràng sau lỵ.

Viêm ruột thừa do amip.

Các biến chứng hiếm.

Trẻ nhỏ rặn nhiều sẽ bị sa hậu môn. Vì mất nhiều chất bổ dưỡng nên trẻ dễ bị viêm đa dây thần kinh. Hội chứng viêm niệu đạo kết mạc mắt có thể xuất hiện sau khi bị lỵ. Trẻ có thể bị viêm khớp rồi để lại di chứng teo cơ.

Có thể gây rối loạn chức năng vận động của ruột, viêm đại tràng, trĩ, sa hậu môn. Nặng nhất là ký sinh trùng amibe lên gan gây ápxe gan do amibe.

Di chuyển đến vùng có bệnh kiết lỵ.

Có tiếp xúc với người tiêu đàm máu, đau bụng hoặc có nhiều người cùng mắc bệnh tương tự ở chung một tập thể hoặc quanh vùng cư ngụ.

Xét nghiệm qua phân.

Qua nội soi.

X quang ruột già.

Huyết thanh.

ĐIỀU TRỊ BỆNH KIẾT LỴ:

Các loại thuốc diệt ly amibe:

Émétine: do thuốc bài tiết chậm nên cần khoảng thời gian giữa hai đợt điều trị là 45 ngày.

Metronnidazole: thuốc xâm nhập qua hàng rào máu não tốt nên là thuốc chọn lựa để điều trị các tổn thương thần kinh trung ương.

Dehydro-émétine: ít độc, thải trừ nhanh hơn émetine, khoảng cách giữa hai đợt điều trị là 15 ngày.

Các lọai thuốc diệt kiết lỵ do mầm bệnh shigella

– Ciprofloxacine, Péfloxacine, Ofloxacine.

– Bactrim.

PHÒNG NGỪA BỆNH KIẾT LỴ:

Rửa sạch tay trước khi ăn, ăn chính, uống sôi.

Rửa sạch rau sống, thức ăn cần đậy kỹ tránh ruồi nhặn.

Vệ sinh phân, rác, quản lý việc dùng phân trong nông nghiệp.

Ðặc biệt nơi sống tập thể và người phục vụ ăn uống, cấp dưỡng, nuôi dạy trẻ phải sạch sẽ.

Ðiều trị người lành mang bào nang.

Theo Camnangbenh

Cùng Chuyên Mục

Bình Luận Facebook

Phân Biệt Bệnh Kiết Lỵ Trực Trùng Và Kiết Lỵ Amíp

Nói đến bệnh kiết lỵ là nói đến lỵ vi khuẩn mà thường gọi là lỵ trực trùng (còn gọi là lỵ trực khuẩn) và lỵ do ký sinh trùng gây ra là lỵ amíp (do ký sinh trùng amíp). Bệnh kiết lỵ trực trùng là bệnh do vi khuẩn lỵ (Shigella) gây ra khác với bệnh kiết lỵ do ký sinh trùng amíp.

Bệnh kiết lỵ trực khuẩn lây theo đường ăn uống và rất có khả năng gây thành dịch lớn bởi vì chúng có khả năng tồn tại trong thiên nhiên khá lâu.

Thời gian tồn tại của vi khuẩn lỵ

Vi khuẩn lỵ có thể sống và phát triển trong nước ngọt, rau sống, thức ăn tối thiểu từ 7 – 10 ngày và cũng có thể sống lâu hơn nữa. Ở các quần áo, đồ dùng trong ăn uống của người bệnh kiết lỵ trực khuẩn hoặc trong đất có khi chúng tồn tại tới từ 6 -7 tuần lễ.

Hình thức đào thải

Nguồn đào thải trực khuẩn lỵ là chất thải (phân), thức ăn, nước uống, dụng cụ ăn uống của người đang mắc bệnh kiết lỵ trực khuẩn và người lành mang trực khuẩn lỵ. Đối với những đối tượng là người lành mang vi khuẩn lỵ, khi sức khỏe tốt thì chúng coi như sống cộng sinh nhưng khi sức đề kháng kém chúng trở nên gây bệnh.

Điều quan trọng nhất của người lành mang vi khuẩn lỵ là luôn luôn đào thải mầm bệnh ra môi trường theo phân làm ô nhiễm môi trường, đặc biệt là những vùng mà quản lý phân người chưa thật tốt hoặc không đảm bảo vệ sinh. Từ những đối tượng này lỵ trực khuẩn sẽ theo phân, theo thức ăn, nước uống bị nhiễm trực trùng lỵ đi ra ngoài làm ô nhiễm môi trường xung quanh nhất là ô nhiễm nguồn nước, từ đây trực khuẩn lỵ được lan theo các loại thức phẩm có dùng nước bị ô nhiễm để rửa (rau, thịt, cá…) và lây sang cho người lành bằng con đường ăn, uống. Lỵ trực khuẩn có trong nước ô nhiễm nếu người nào uống nước chưa được đun sôi thì nguy cơ mắc bệnh kiết lỵ do trực khuẩn lỵ là điều rất khó tránh khỏi.

Phân nhóm lỵ trực khuẩn

Người ta chia lỵ trực khuẩn thành 4 nhóm: S. dysentriae, S. Flexnerie, S. Boydii và S. sonnei. Trong 4 nhóm lỵ trực khuẩn này thì nhóm hay gặp nhất ở Việt Nam là lỵ trực khuẩn nhóm S. flexneri.

Qua nhiều nghiên cứu người ta thấy rằng, nhóm lỵ trực khuẩn gây bệnh kiết lỵ nặng nhất là lỵ nhóm 1, trong đó týp S. shiga gây bệnh nặng, nguy kịch hơn cả và rất dễ đưa đến tử vong nếu không phát hiện, điều trị kịp thời. S. shiga gây bệnh nặng và nguy hiểm bởi vì chúng vừa gây bệnh bằng nội độc tố và ngoại độc tố. Đối với các loại vi khuẩn thì loại nào gây bệnh bằng ngoại độc tố cũng có bệnh cảnh lâm sàng rất nặng. Và nếu vi khuẩn vừa gây bệnh bằng nội độc tố và vừa gây bệnh ngoại độc tố, bệnh cảnh lâm sàng càng trầm trọng hơn.

Các triệu chứng của hai loại lỵ này

Mọi người có thể mắc bệnh kiết lỵ trực khuẩn đặc biệt là những người chưa có miễn dịch chống lại trực khuẩn lỵ. Sau khi có một lượng lớn trực khuẩn lỵ vào trong cơ thể khoảng vài ba ngày là bắt đầu xuất hiện các triệu chứng sốt cao, rối loạn tiêu hóa như đau bụng, buồn nôn, nôn, đi lỏng nhiều lần, phân có máu. Giai đoạn đầu phân còn có khuôn nhưng sau một thời gian ngắn phân sẽ lỏng kèm theo có chất nhầy như mũi và có máu. Máu xuất hiện là do độc tố vi khuẩn lỵ làm tổn thương niêm mạc ruột. Máu chảy ra trộn lẫn với phân. Lúc đầu là máu tươi, dần dần phân lỏng ra và máu hòa lẫn với phân, chất tiết dịch của ruột cho nên màu của phân lúc này lờ lờ như máu cá nhất là phân của bệnh nhân bị lỵ trực khuẩn týp S. shiga.

Với thể bệnh do lỵ S.shiga, giai đoạn đầu còn biết số lần đi ngoài trong ngày nhưng vài ba ngày sau thì không thể đếm được số lần đi ngoài do phân cứ tự chảy ra ở hậu môn. Đồng thời thể rạng suy sụp do nhiễm độc độc tố nặng. Song song với nhiễm độc độc tố thì đối với bệnh kiết lỵ trực khuẩn thường là đi ngoài nhiều lần cho nên xảy ra hiện tượng mất nước và chất điện giải có khi rất trầm trọng. Nhiễm độc độc tố nặng và mất nước, chất điện giải dễ đưa đến tử vong đặc biệt là trẻ em và người cao tuổi già yếu nếu không cấp cứu kịp thời.

Với bệnh kiết lỵ amíp thì tác nhân gây bệnh là ký sinh trùng amíp (Entamoeba histolitica), chúng thuộc loại đơn bào, khả năng tồn tại trong môi trường tự nhiên tuy có ngắn ngày hơn so với trực khuẩn lỵ nhưng vai trò gây bệnh của chúng cũng không thể xem thường. Bệnh kiết lỵ amíp chủ yếu là tình trạng nhiễm trùng ở ruột già.

Khi bị bệnh thường có 2 loại: cấp tính và mạn tính:

Thể cấp tính: thường gặp là những hội chứng lỵ, bao gồm đau bụng, mót rặn và đi ngoài phân có máu lẫn với chất nhầy như chấttiết ở mũi (nhầy máu mũi). Đi ngoài nhiều lần trong ngày nhưng mỗi lần đi ngoài không có nhiều phân. Đối với một số bệnh nhân thỉnh thoảng có tiêu chảy nhưng không rầm rộ, ồ ạt như bệnh kiết lỵ trực khuẩn. Người bệnh thường xuất hiện đau quặn bụng từng cơn, đau dọc theo khung đại tràng trước khi đi ngoài. Song song với đau bụng là mót rặn. Người bệnh đau bụng rất muốn đi ngoài nhưng khi ngồi vào nhà vệ sinh rất lâu nhưng không đi ngoài được (đi nhanh về chậm). Nếu ở thể nhẹ thì sức khỏe ít bị ảnh hưởng nhưng khi bệnh nặng thì bệnh nhân có thể bị suy kiệt (đi ngoài ra máu nhiều lần trong ngày), rối loạn chất điện giải, bụng trướng.

Thể mãn tính: Khi bị lỵ amíp không được điều trị hoặc điều trị không dứt điểm, không đúng phác đồ thì bệnh sẽ chuyển thành mạn tính và khi đó lỵ amíp sẽ chui vào trong niêm mạc ruột tạo thành các kén amíp, từng đợt chúng lại xuất hiện gây đau bụng, đi ngoài ra máu tươi nhất là khi ăn các loại thức ăn lạ, nhiều mỡ… Hậu quả của lỵ amíp mạn tính là gây nên viêm đại tràng mạn tính làm cho người bệnh rất khó chịu và dễ bị suy kiệt do rối loạn tiêu hóa kéo dài. Mắc bệnh kiết lỵ amíp còn có một nguy cơ lan truyền ngược dòng gây nên hiện tượng ápxe gan.

Phòng bệnh kiết lỵ như thế nào?

Muốn phòng bệnh kiết lỵ (lỵ trực khuẩn và lỵ amíp) có hiệu quả thì cần đảm bảo vệ sinh môi trường, quản lý chất thải và phân của người bệnh đúng quy định như cho vào hố xí, có các chất sát khuẩn mạnh kèm theo như vôi bột, cloramin đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Không được xả phân và giặt quần áo của người bệnh kiết lỵ ra sông, suối, ao, hồ. Không nên ăn rau sống không hợp vệ sinh, không uống nước chưa được đun sôi, không ăn tiết canh, gỏi, nem chạo, nem chua… Cần phải rửa tay sạch bằng xà phòng sau khi đi vệ sinh và trước khi ăn.

Đối với người lành mang mầm bệnh cần được điều trị dứt điểm và cần xét nghiệm phân theo định kỳ. Những vùng có nguy cơ mắc lỵ trực khuẩn cần được sử dụng vắc-xin phòng bệnh kiết lỵ trực khuẩn theo chỉ dẫn của cán bộ y tế địa phương.

chúng tôi