Top 9 # Một Số Bệnh Xã Hội Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Polyp Đại Tràng Và Một Số Hội Chứng Polyp Hay Gặp

POLYP ĐẠI TRÀNG VÀ MỘT SỐ HỘI CHỨNG POLYP HAY GẶP

ĐẠI CƯƠNG

Polyp lả tổ chức tăng sinh từ lớp niêm mạc đẩy lồi vào lòng ống tiêu hóa chung quanh một trục tổ chức liên kết và mạch máu. Polyp có thể phát triển từ lớp biểu mô (epithelial polyp) hoặc từ lớp dưới biểu mô (nonepithelial polyp) hay còn gọi là u dưới niêm mạc (sub mucosal tumor- SMT). Ngoài ra, còn có thuật ngữ giả polyp (pseudopolyp) đây không phải là tổ chức tăng sinh như polyp hay gặp trong quá trình viêm như trong viêm loét đại tràng chảy máu, bệnh Crohn, bản chất có thể là vùng niêm mạc bình thường còn lại giữa một vùng niêm mạc bị loét hoặc phát triển của tổ chức hạt tại vùng niêm mạc bị loét.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán xác định

Lâm sàng

Polyp thường được phát hiện tình cờ qua nội soi, hầu như ít có triệu chửng trên lâm sàng. Đôi khi polyp có triệu chứng, mà chù yếu là do các biến chứng gây ra chảy máu: người bệnh đại tiện ra máu đỏ tươi, không đau bụng và cũng không có triệu chứng gì khác, khi chảy máu nhiều có thể có biểu hiện thiếu máu: da xanh, niêm mạc nhợt.

Đối với trẻ em đại tiện phân máu đỏ tươi phần lớn là do trĩ.

Cận lâm sàng

Xét nghiệm có thể thấy hồng cầu trong phân: đây là xét nghiệm có ý nghĩa đẻ sàng lọc và chỉ định để bệnh nhân nội soi đại tràng.

Nếu có biến chửng chảy máu: xét nghiệm có thể có thiếu máu.

Nội soi giúp chẩn đoán xác định polyp: polyp có thể có cuống hoặc không có cuống, bề mặt nhẵn hoặc tạo các thùy múi hoặc bề mặt giống hoa súp lơ. Đối với polyp từ lớp dưới biểu mô hay u dưới niêm mạc: không có cuống, bề mặt phủ bởi lớp niêm mạc bình thường, trong trường hợp điền hình có thể thấy cầu niêm mạc.

MSCT, capsule có thể phát hiện được polyp. Tuy nhiên, soi đại tràng có giá trị nhất trong chẩn đoán và điều trị.

Mô bệnh học: cho phép chẩn đoán xác định bản chất polyp.

Bảng 1. Phân loại polyp

Chẩn đoán polyp ung thư hóa: dựa vào nội soi sinh thiết chẩn đoán trên mô bệnh học.

Các loại polyp

Polyp bắt nguồn từ lớp biểu mô

Polyp tăng sản (hyperplastic polyp): chiếm khoảng 15% polyp đại tràng, thường gặp ờ đoạn cuối của đại tràng mà đặc biệt hay gặp tại trực tràng. Polyp hay gặp tăng theo tuổi.

Nội soi: thường nhỏ < 5mm, không có cuống, màu nhợt hơn so với niêm mạc xung quanh.

Mô bệnh học: tăng sinh tế bào biểu mô biệt hóa cao mà không có tính chất loạn sản.

Điều trị: polyp tăng sản có tính chất lành tính không cần cắt bỏ khi không gây biến chứng.

Nội soi: kích thước thay đổi khác nhau, có cuống hoặc không, polyp có màu đỏ, có múi hoặc giống hoa súp lơ. Có thẻ gặp ờ tất cả đoạn đạl tràng, nhưng hay gặp nhất lả đại trảng sigma.

Mô bệnh học: tăng sinh của biểu mô tuyến, phân chia thành 3 loại: ống tuyến, tuyến nhung mao vả ống tuyến nhung mao. Mức độ ác tính cao nhất là nhung mao rồi đến ống nhung mao và cuối cùng là ống tuyến.

Điều trị: polyp tuyến có tỉ lệ loạn sản và ác tính cao với thẻ tuyến nhung mao và ống tuyến nhung mao. Tiến hành cắt polyp qua nội soi với polyp ở bất cứ kích thước nào.

Phòng bệnh:

Đối với bệnh nhân nguy cơ thấp: 1 -2 polyp ống tuyến nhỏ < 1 cm soi đại tràng kiểm tra lại sau 5 năm.

Polyp bắt nguồn dưới biểu mô

Những polyp này không có cuống, bề mặt phủ bời lớp niêm mạc bình thường, trong trường hợp điển hình có thể thấy cầu niêm mạc.

u mỡ (lipoma): có thể gặp ờ bất cứ vị trí nào cùa ống tiêu hóa hay gặp nhất ờ đại tràng.

Nội soi: là u dưới niêm mạc, màu vàng nhạt, mềm, thường có một u đơn độc.

Mô bệnh học: có vỏ, bao gồm những tế bào mỡ trường thành, ở lớp dưới niêm mạc của thành ống tiêu hóa.

Điều trị: thường lành tính rất hiếm khi ác tính, cắt bỏ qua nội soi hoặc phẫu thuật khi có biến chứng.

u carcinoid: thường gặp tại ruột thừa, trực tràng có thể gặp ờ phổi. Biểu hiện các triệu chứng trên lâm sàng của tăng tiết hormon như: đỏ bừng ngoài da đặc biệt vùng mặt cổ và ngực, tiêu chảy buồn nôn hoặc nôn, đau bụng, khó thở do co thắt phế quản.

Nội soi: là u dưới niêm mạc, màu vàng.

Mô bệnh học: bản chất là các tế bào thần kinh nội tiết, có khả năng bài tiết hormon.

Điều trị: đây là khối u ác tính tiến triển chậm, thời gian sống 5 năm nói chung 50-65%. cần cắt niêm mạc qua nội soi để lấy khối u hoặc bằng phẫu thuật.

u tế bào đệm (gastrointestinal stromal tumor – GIST): ít gặp tại đại tràng.

Nội soi: bề mặt nhẵn giống niêm mạc xung quanh, kích thước thay đổi khác nhau.

Mô bệnh học: tăng sinh các tế bào hình thoi, khi nhuộm hóa mô miễn dịch cho kết quả dương tính với C117.

u thần kinh (neural tumor): thực ra trong phân loại u thần kinh cũng được xếp loại trong nhóm GIST chỉ khác là khi nhuộm hóa mô miễn dịch những u này cho kết quả dương tính với S100 và âm tính với C117.

u máu (hemangioma): ít gặp ở ống tiêu hóa đặc biệt hiếm gặp đối với đường tiêu hóa trên, u lành tính rất ít khi ác tính.

Nội soi: u dưới niêm mạc, màu đỏ hoặc màu xanh tím.

Mô bệnh học: bản chất là các xoang mạch nằm ờ lớp dưới niêm mạc.

Điều trị: lành tính không cần cắt bỏ.

u bạch mạch (lymphangioma): ít gặp ở đường tiêu hóa, có thể gặp đại tràng. Trên nội soi là khối bề mặt nhẵn màu vàng trắng. Mô bệnh học là những nang chứa đầy dưỡng trấp. Bệnh lành tính không cần cắt bỏ.

Một số hội chứng polyp thường gặp

Hội chứng đa polyp tuyến có tính chất gia đình (íamilial adenomatous polyposis).

Đây là một bệnh có tính chất di truyền trên gen trội, do đột biến gen APC. Tỉ lệ mắc 1/10.000- 15.000 trẻ sinh ra. Biểu hiện lâm sàng: đại tiện máu, có thể tiêu chảy nhiều lần, gầy sút khi có ung thư hóa. Nếu không điều trị, ung thư đại tràng lả không tránh được. Tuổi bị ung thư đại tràng từ 34-43.

Nội soi: có nhiều polyp tuyến trong đại tràng, trên 100 polyp; 30-100% bệnh nhân có polyp tuyến đáy vị dạ dày: 46-93% có polyp tuyến trong tá tràng; 5% có adenoma của papilla.

Mô bệnh học: bản chất lả polyp tuyến.

Những hội chứng đa polyp tuyến có tính chất gia đình không điển hình khác.

Hội chứng Gardner: ngoài polyp tại đại tràng còn có khối u ở nhiều nơi, có biểu hiện nhuyễn xương, tổn thương xương hàm, u mềm ngoài da, khối u biểu bì trong ổ bụng, u xơ tại các cân cơ.

Hội chứng Turcot: ngoài polyp tại đại tràng bệnh nhân có u ác tính tại não.

Hội chứng Peutz- Jegher

Là một bệnh có tính chất di truyền trên gen trội, do đột biến gen STK11/LKB1. Tỉ lệ mắc bệnh 1/25.000-300.000 trẻ sinh ra. Bệnh biểu hiện có những chấm sắc tố đen tại vùng môi, gan bàn tay, lòng bàn chân. Do polyp trong lòng ống tiêu hóa có thể biểu hiện ỉa máu, tắc ruột do lồng ruột. Người bệnh tăng nguy cơ ung thư đường tiêu hóa, ung thư tụy, ung thư phổi, ung thư tinh hoàn ờ nam và ung thư tử cung, buồng trứng và vú ở nữ giới. 50% bệnh nhân thường tử vong ờ độ tuổi 50-60.

Nội soi: có thể thấy polyp tại dạ dày, ruột non, đại tràng.

Mô bệnh học: bản chất là các u mô thừa polyp.

Hội chứng polyp tuổi thiếu niên (Juvenil polyp)

Lả bệnh di truyền trên gen trội, do đột biến gen BMPR1A và SMAD4. Thường xuất hiện ở độ tuổi từ 4 -14 tuổi, cũng có thể gặp khi ờ tuổi trường thành.

Nội soi: hay gặp polyp dạ dày và đại tràng. Polyp đại tràng thường < 10, chỉ 1-2% số bệnh nhân có nhiều polyp đại tràng. Polyp có thể có cuống hoặc không cuống.

Mô bệnh học: bản chất là u mô thừa polyp.

Điều trị: khi polyp đơn độc hoặc số lượng < 5 polyp khả năng ác tính ít. Nguy cơ ác tính cao khi xuất hiện với số lượng polyp nhiều, cắt polyp qua nội soi.

Chẩn đoán phân biệt

Trĩ: thường ỉa máu đỏ tươi khi bắt đầu đại tiện hoặc cuối phân. Trẻ em không bị trĩ mà phần lớn là do polyp.

Ung thư đại tràng: bệnh nhân đau bụng, đại tiện nhiều lần hoặc táo bón, dựa vào nội soi đại tràng.

Giả polyp trong viêm loét đại tràng chảy máu hoặc bệnh Crohn.

ĐIÊU TRỊ

Khi có nhiều polyp đại tràng cần thăm dò phát hiện polyp tại dạ dày và tá tràng, ruột non.

Chủ yếu là cắt polyp qua nội soi. Một số thuốc giảm đau chống viêm không steroid có tác dụng làm chậm mọc polyp, tuy nhiên khi dùng thuốc dự phòng kéo dài làm tăng tác dụng phụ trên đường tiêu hóa nên ngày nay ít dùng.

Trong trường hợp có dùng thuốc chống kết tập tiểu cầu cần dừng thuốc trước khi cắt polyp 7-10 ngày. Trong trường hợp bệnh nhân dùng heparin và thuốc chống đông cần dừng thuốc trước cắt polyp 10 giờ. Đối với trẻ em khi tiến hành cắt polyp phải tiêm mê, tốt nhất là gây mê.

Chỉ định cắt polyp qua nội soi: làm xét nghiệm công thức máu và đông máu, không có rối loạn đông máu.

Các biến chứng khi cẳt polyp: chảy máu, thủng, hội chứng sau cắt polyp: sau cắt polyp biểu hiện bằng nôn, đau bụng có cảm ứng phúc mạc và phản ứng thành bụng nhưng không có thủng đại tràng.

Theo dõi sau cắt polyp:

Đối với bệnh nhân nguy cơ thấp: 1 -2 polyp ống tuyến nhỏ < 1 cm soi đại tràng kiểm tra lại sau 5 năm.

Đối với bệnh nhân nguy cơ thấp: 1-2 polyp ống tuyến nhỏ < 1cm với loạn sản thấp, soi đại tràng kiểm tra lại sau 5-10 năm.

Polyp tăng sản: sau cắt được coi như đối đại tràng bình thường soi kiểm tra lại sau 10 năm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tadataka Yamada. Texbook of gastroenterology 2003, Vol 1: 1292-1294, 1520-1524; Vol 2:1721- 1725, 1965- 1986, 1965-2023.

Gregory G. Ginsberg, Michael L. Kochman, Lan Norton, Christopher J. Gostout. Clinical

gastrointestinal endoscopy 2005: 447-460. .

Krzysztof Zinkiewicz at al. Ectopic pancreas: endoscopic, ultrasound and radiological teatures. Folia Morphol., 2003, Vol. 62, No. 3: 2050208.

Hikikomori Là Gì? Một Sự Thực Đáng Buồn Của Xã Hội Nhật Bản

Trong xã hội hiện đại, có một căn bệnh rất nguy hiểm tên là Hikikomori. Những người bị mắc hội chứng này thường chủ động rút lui khỏi xã hội, chấp nhận cuộc sống xung quanh căn phòng. Vậy hikikomori là gì? Biểu hiện ra sao? Cùng nhanlucnhatban tìm hiểu ngay thôi nào.

Hikikomori là gì?

Hikikomori là hiện tượng những người tự giam mình trong căn phòng đơn lẻ và từ chối tham gia vào đời sống xã hội và gia đình trong thời gian dài hơn sáu tháng, chỉ liên hệ duy nhất với người thân trong gia đình (người bị bệnh nặng gia đình người thân cũng không quan tâm) – Trích wikipedia.

Đối với người Nhật, Hikikomori chính là những người bị xã hội xa lánh. Hikikomori là những người không còn có khả năng tiếp xúc và đối diện với xã hội, thậm chí họ cũng không cần đi học hay đi làm và chỉ ra khỏi nhà mỗi khi họ cần mua thêm đồ ăn.

Họ đơn thuần chỉ cần ăn uống ở mức độ tối thiểu đủ để sống qua ngày. Cứ mỗi ngày trôi qua như vậy, họ chỉ ở trong phòng xem truyện tranh, phim hoạt hình hoặc chơi điện tử và tự nhốt mình lại cách ly với thế giới ở ngoài kia.

Không chỉ có vậy, họ thậm chí còn không giao tiếp với người thân, gia đình.

Biểu hiện của Hikikomori

Có thể xem rằng Hikikomori là một hiện tượng của xã hội. Thời gian đầu, những người bị Hikikomori thường sẽ tự cách ly mình với những mọi người xung quanh.

Sau đó, chính họ sẽ tự tìm cách để thu hút được sự chú ý của những người trong gia đình. Và đến cuối cùng, họ cũng sẽ chấm dứt mối quan hệ với người thân của mình.

Trong rất nhiều năm, Hikikomori bị xã hội lên án và nó trở thành một đề tài cấm kỵ mãi cho đến những năm cuối thập niên 90. Những người Hikikomori trở thành tầm ngắm của truyền thông khi liên tục có những hành vi phạm pháp cực kỳ nghiêm trọng.

Một trường hợp xảy ra vào tháng 5 năm 2000, một đối tượng Hikikomori 17 tuổi đã chạy trốn ra khỏi bệnh viện tâm thần, sau đó thực hiện hành vi cướp trên xe bus và giết hại một hành khách cùng chuyến. Hay một câu chuyện khác về một Hikikomori 24 tuổi đã bắt cóc một cô gái 17 tuổi. Anh ta giam cô gái ấy trong nhà suốt 4 tháng liền và không cho nạn nhân nói chuyện.

Nhận định của các chuyên gia

Mặc dù đã có những trường hợp không may xảy ra, tuy nhiên, theo nhận định của giới chuyên gia thì các Hikikomori sẽ ít khi làm hại đến người khác ngoại trừ chính bản thân mình.

Có thể dễ thấy rằng, những Hikikomori rất dễ dàng tự đưa mình vào trong một ổ kén trong khoảng thời gian dài, có thể tới vài năm. Họ mất dần đi những mối quan hệ thân thiết với bạn bè và chính ca gia đình của mình. Nhưng một khi họ đã nổi cơn thịnh nộ, thì gia đình chính là những người đầu tiên họ trút giận.

Không có ít trường hợp các bố mẹ bị chính con cái của mình là các Hikikomori khủng bố. Điều này khiến người thân của những Hikikomori lo sợ và phải ngủ ở trong ô tô thậm chí là buồng tắm và tự bảo vệ mình bằng bình xịt hơi cay.

Hikikomori là sự tiêu cực hay tích cực?

Đa số người dân Nhật Bản đều cho rằng chính Hikikomori đang ngày trở thành một lối sống rất tiêu cực cho xã hội. Điều này khiến cho đa số nam giới bị suy giảm sức khỏe và dần trở thành gánh nặng của gia đình.

Đồng thời sự việc này cũng làm giảm tỷ lệ kết hôn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tỷ lệ gia tăng dân số, đặc biệt đối với một nước có phần đông dân số già như Nhật Bản.

Tuy nhiên, nếu nhìn rộng ra và suy nghĩ theo hướng tích cực thì Hikikomori chỉ cần những điều kiện hết sức cơ bản để có thể duy trì được cuộc sống. Suy cho cùng, theo chủ nghĩa tối giản thì sự tích cực ở đây chính là họ tiết kiệm được khá nhiều tiền.

Đồng thời cũng có nhiều người cho rằng, nếu họ vẫn đi làm và có trách nhiệm với bản thân thì đây không phải vấn đề đáng lên án.

Hikikomori tại nhiều quốc gia trên thế giới

Không chỉ riêng Nhật Bản mà tại nhiều quốc gia trên thế giới. Hikikomori là gì cũng được rất nhiều người quan tâm. Số lượng những người có dấu hiệu tương tự Hikikomori đang gia tăng tại Hàn Quốc, Mỹ và Ấn Độ. Điều này làm dấy lên sự quan ngại về những người có khả năng sống tách biệt với xã hội.

Đã có nhiều nghiên cứu được thực hiện và chỉ ra rằng, Hikikomori đa số là những người có chứng nghiện Internet rất cao. Tuy nhiên, những yếu tố được nghiên cứu này thực tế vẫn chưa đưa ra được những mối quan hệ rõ ràng với Hikikomori.

Một Số Bệnh Án Đông Y

Thứ năm – 22/03/2012 08:35

I.PHẦN HÀNH CHÍNH -Họ và tên bệnh nhân: TRẦN THỊ H. -Giới: Nữ -Tuổi: 66 -Địa chỉ: 20/131 Trần Phú, Phước Vĩnh, Huế -Nghề nghiệp: Hưu trí -Ngày giờ vào viện: ngày 12/11/2009 -Lí do vào viện: Chóng mặt -Số vào viện: 1812 -Ngày thăm khám: ngày 13/11/2009 II.BỆNH SỬ 1.Quá trình bệnh lý: Khởi bệnh cách đây 2 tháng với chóng mặt, không sốt, không đau đầu, không nhức đầu, không ù tai, không đau tai, và không buồn nôn, không nôn. Chóng mặt xuất hiện đột ngột, từng cơn, kéo dài khoảng 1 phút, bệnh nhân thấy mọi vật xung quanh mình xoay tròn, chóng mặt tăng khi bệnh nhân hồi hộp, kèm ra mồ hôi tay; khi ngồi lâu đứng dậy bệnh nhân cũng xuất hiện chóng mặt, nhắm mắt thì đỡ chóng mặt; làm việc mau mệt và dễ hồi hộp, động làm thì hồi hộp tăng và có kèm theo triệu chứng khó ngủ, ngủ chập chờn, không sâu, đau lưng, mỏi gối. Bệnh nhân đã điều trị khoảng 1 tháng với các thuốc hoạt huyết dưỡng não, vitamin nhóm B, bệnh có thuyên giảm, ngủ được nhưng không hết, thỉnh thoảng vẫn chóng mặt nên giờ xin vào bệnh viện y học cổ truyền để điều trị. Thăm khám khi vào viện:

·

Mạch: 85 lần/phút

Nhiệt: 370C

Tần số thở: 18 lần/phút

Huyết áp 130/80 mmHg

Tổng trạng mập, tỉnh táo, tiếp xúc tốt

Hiện tại không chóng mặt,

Không đau nhức đầu, không ù tai, không đau tai

Nhịp tim đều, T1, T2 nghe rõ, không nghe tiếng tim bệnh lý, không hồi hộp, không khó chịu vùng ngực, không đau tức ngực

Không ho, không khó thở, phổi trong

Bụng mềm, gan lách không sờ thấy

Tiểu bình thường, hai thận không sờ thấy

Các cơ quan khác chưa phát hiện bệnh lý

Hồng cầu 3,64 x106/mm3 (bt 3.87 – 4.91×106/mm3)

Hb 12,8 g/dl (bt 12-16g/dl)

Hct 38,9 % (bt 34-44%)

Bạch cầu 5,9 x103/mm3

Mid 0,5 x103/mm3 chiếm 8,2%

Lympho 2,3 x103/mm3 chiếm 38,9%

Gran 3,1 x103/mm3­­ chiếm 52,9%

Tiểu cầu 264,103/mm3

2.Nước tiểu Ngày 16/11/2009

Glucose 6,09 mmol/l

Cholesterol 5,04 mmol/l

LDL 2,32 mmol/l

HDL 1,99 mmol/l

Acid uric 230,36 umol/l

Creatinin 61,64 umol/l

SGOT 24,84 UI/l

SGPT 21,45 UI/l

Mờ xoang trán (T), mờ xoang hàm (P)

Siêu âm tổng quát: Gan nhiễm mỡ nhẹ

Siêu âm tim: hở van động mạch chủ nhẹ

Nhịp xoang, tần số 90 lần/phút

Trục trung gian apha=+600

IV.Tóm tắt biện luận chẩn đoán: Bệnh nhân nữ 66 tuổi, vào viện vì chóng mặt, qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng em rút ra các dấu chứng và hội chứng sau:

Hội chứng viêm xoang

Chóng mặt từng cơn, kéo dài khoảng 1 phút, bệnh nhân cảm thấy mọi vật xung quanh xoay tròn

Chóng mặt tăng khi bệnh nhân hồi hộp, nhắm mắt thì đỡ chóng mặt

X-quang: Mờ xoang trán (T), mờ xoang hàm (P)

Hội chứng thiếu máu não cục bộ thoáng qua

Chóng mặt từng cơn, dột ngột, kéo dài khoảng 1 phút

Số lượng hồng cầu giảm nhẹ

Siêu âm có hở van động mạch chủ nhẹ

Dấu chứng âm tính

Không đau đầu, không nhức đầu

Không đau tai, không ù tai, không sốt

Không buồn nôn, không nôn

Chẩn đoán sơ bộ: Viêm xoang / thiếu máu cục bộ não thoáng qua Biện luận: Bệnh nhân nữ 66 tuổi vào viện chóng mặt từng cơn, kéo dài khoảng 1 phút, khởi bệnh cách đây 2 tháng, bệnh nhân cảm giác thấy mọi vật xung quanh mình xoay tròn, nhưng không nhức đầu, không đau đầu, không đau tai, không ù tai, không buồn nôn và không nôn. Đây là chóng mặt do rối loạn tiền đình ngoại vi không phải do tổn thương tiền đình trung ương vì tổn thương tiền đình trung ương bệnh nhân cũng có thể có triệu chứng chóng mặt nhưng thường kèm theo đau đầu, nói khó, hoặc yếu liệt chi. Bệnh nhân cũng không có tăng huyết áp, cholesterol máu bình thường, đường huyết bình thường, không có biểu hiện lâm sàng của cường giáp, bệnh nhân cũng không dùng các thuốc kháng sinh và các thuốc an thần mà có thể gây nên biểu hiện chóng mặt. Bệnh nhân không có tăng huyết áp, protein niệu 30mg/dl, đây là protein niệu sinh lý ở người bình thường. Nguyên nhân do rối loạn tiền đình ngoại vi gây chóng mặt ở đây là do viêm xoang. Mặc dù bệnh nhân không có biểu hiện đau các xoang như xoang hàm: nhức vùng má, xoang trán: nhức giữa 2 lông mày xoang sàng trước: nhức giữa 2 mắt, xoang sàng sau, xoang bướm: nhức trong sâu, nhức vùng gáy, cũng không có biểu hiện nghẹt mũi hay chảy nước mũi nhưng qua x-quang ta có thể khẳng định là bệnh nhân bị viêm xoang, x-quang có mờ xoang trán (T), mờ xoang hàm (P). Đây là trường hợp viêm xoang mạn tính, do bệnh khởi phát cách đây khoảng 2 tháng và các triệu chứng rất là nhẹ nhàng, chỉ có biểu hiện là chóng mặt. Chóng mặt xuất hiện đột ngột, từng cơn, kéo dài khoảng 1 phút, khi ngồi lâu đứng dậy bệnh nhân cũng xuất hiện chóng mặt. Như vậy bệnh nhân có thể bị hạ huyết áp khi thay đổi tư thế do cơ thể không thích nghi kịp thời gây thiếu máu não thoáng qua hoặc có cơn hạ huyết không theo chu kỳ. Điều này rất phù hợp với thiếu máu não thoáng qua do thay đổi tư thế trên cơ thể có số lượng hồng cầu giảm nhẹ (hồng cầu 3,64 x106/mm3, tiểu máu vi thể 5-10 ery/ul. Có thể xác định bằng cách theo dõi holter huyết áp hoặc Monitoring sẽ phát hiện được những cơn hạ huyết áp này. Biểu hiện chóng mặt kèm hồi hộp ở đây có thể là do phản ứng giao cảm trước rối loạn tiền đình hoặc do tình trạng thiếu máu não thoáng qua do hạ huyết áp tư thế hoặc cơn hạ huyết áp không theo chu kỳ trên cơ địa giảm số lượng hồng cầu kèm hở van động mạch chủ nhẹ, nếu có gắng sức thì càng biểu hiện rõ nhất là triệu chứng hồi hộp và chóng mặt. Vậy chẩn đoán cuối cùng là viêm xoang mạn tính / thiếu máu cục bộ não thoáng qua. V. Tiên lượng: -Khả quan VI.Điều trị: Kháng sinh, kháng viêm, chống dị ứng, tăng tuần hoàn não -Amoxicillin 500mg x 15 viên, ngày 2 viên, sáng 1 viên, tối 1 viên -Metronidazole 500mg x 15 viên, ngày 2 viên, sáng 1 viên, tối 1 viên -Dexamethasone 0,5mg x 10 viên, ngày 3 viên, sáng 2 viên, tối 1 viên -Ginko biloba 40mg x 21 viên, ngày 3 viên, sáng 1 viên, chiều 1 viên, tối 1 viên VII.Phòng bệnh: – Đeo khẩu trang trước khi ra đường và làm công việc gặp nhiều bụi bặm. Giữ môi trường xung quanh luôn sạch sẽ, tránh xa khói bụi, chất thải, ăn uống đủ dinh dưỡng. – Khi có các triệu chứng ban đầu như hắt hơi, chảy nước mũi, tắc mũi, cần đến ngay bệnh viện, không nên tự mua thuốc điều trị.

PHẦN THĂM KHÁM ĐÔNG Y I.Vọng: -Tỉnh táo, linh hoạt -Sắc mặt tươi nhuận, sắc môi nhuận -Chất lưỡi đỏ, rêu vàng, mỏng, ướt, lưỡi không to bệu, không có dấu răng, không lệch, không run -Thể trạng mập, da lông nhuận, không phù, không teo cơ, chân tay không run, đi đứng bình thường -Thái độ hòa nhã, không cáu gắt, nóng nảy II.Văn: -Tiếng nói rõ, có lực -Không khó thở, hơi thở không hôi -Không ho, không nấc, không buồn nôn, không nôn III.Vấn: -Trong người nóng, thích mát, không sốt -Động làm thì ra mồ hôi tay hơn, không đạo hãn -Ăn uống bình thường, không khát -Nước tiểu lúc vàng lúc trong, thường tiểu vàng nhiều hơn tiểu trong, không tiểu đêm -Đại tiện không táo không lỏng -Thỉnh thoảng chóng mặt, nhưng không đau đầu, không đau tai, không ù tai -Đau lưng, mỏi gối, không đau tức hai bên sườn -Không khó chịu vùng ngực, không đau ngực, không đau bụng -Khó ngủ, ngủ chập chờn, không sâu IV.Thiết: -Mạch đới sác có lực -Lòng bàn tay bàn chân nóng, dưới mũi ức không nóng -Bụng không chướng, không đau, không u cục -Các huyệt Chương môn, Kỳ môn, Trung quản, Cự khuyết, Đản trung, Thái dương không đau khi ấn. -Huyệt Phong trì ấn đau. V.Biện chứng luận trị Bệnh nhân nữ 66 tuổi, vào viện vì chóng mặt, qua vọng văn vấn thiết ta rút ra các dấu chứng và hội chứng sau: Lý chứng -Bệnh ảnh hưởng tới Can, Tâm. Can âm hư biểu hiện chóng mặt, trong người nóng, lòng bàn tay chân nóng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, tiểu vàng, mạch đới sác. Tâm huyết hư biểu hiện dễ hồi hộp, động làm thì hồi hộp tăng kèm ra mồ hôi tay, khó ngủ, ngủ chập chờn, không sâu. Biểu hiện Thận hư chỉ ở mức độ nhẹ chỉ có biểu hiện đau lưng, mỏi gối, trong người nóng, lòng bàn tay chân nóng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, tiểu vàng, mạch đới sác. Nhiệt chứng: -Trong người nóng, thích mát -Lòng bàn tay bàn chân nóng -Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng -Tiểu lúc vàng lúc trong, vàng nhiều hơn trong -Mạch đới sác Hư chứng -Dễ hồi hộp, động làm thì hồi hộp tăng kèm ra mồ hôi tay -Khó ngủ, ngủ chập chờn, không sâu Chẩn đoán bệnh danh : Huyễn vựng Chẩn đoán bát cương : Lý hư nhiệt *Chẩn đoán âm dương khí huyết : Âm, Khí, Huyết Chẩn đoán tạng phủ, kinh lạc : Can Tâm Thận Chẩn đoán nguyên nhân : Nội nhân Pháp điều trị : Tư âm bổ Can Thận, dưỡng tâm an thần “Huyễn” là hoa mắt chóng mặt , “Vựng” là chao đảo như ngồi trên thuyền, hai triệu chứng này thường đi chung với nhau, vì vậy gọi chung là huyễn vựng. Bệnh nhân có triệu chứng, chóng mặt từng cơn, hễ làm việc nhiều thì kèm thêm hồi hộp và ra mồ hôi và khi như vậy thì lại xuất hiện chóng mặt nên bệnh danh ở đây là Huyễn vựng. Chẩn đoán bát cương là lý hư nhiệt. Lý là vì bệnh ảnh hưởng đến tạng phủ mà ở đây là tạng Can và tạng Tâm. Can âm hư biểu hiện, chóng mặt, trong người nóng, lòng bàn tay chân nóng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, tiểu vàng, mạch đới sác. Tâm huyết hư biểu hiện dễ hồi hộp, động làm thì hồi hộp tăng kèm ra mồ hôi tay. Thận hư chỉ ở mức độ nhẹ có biểu hiện là đau lưng, mỏi gối. Nhiệt là vì bệnh nhân có biểu hiện trong người nóng, thích mát, lòng bàn tay chân nóng, tiểu lúc vàng lúc trong, vàng nhiều hơn trong, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch đới sác. Chẩn đoán phân biệt Nguyên nhân của chứng Huyễn vựng có thể do hư có thể do thực nhưng phần lớn là hư chứng, thực chứng rất ít. Thực chứng thường là biểu hiện của chứng hậu can hỏa thượng viêm hoặc can dương thượng cang. Hà gian lục thư thì ghi: ” phong hoả giai dương, dương đa kiêm hoả, dương chủ hô động, lưỡng dương tương bác tắc vi tuyền chuyển” ý nói phong và hoả đều thuộc dương, dương thường kiêm hoả, dương chủ về động, hai dương (phong và hỏa) tương bác với nhau tất gây ra huyễn vựng. Can dương thượng can là do can dương nóng bốc lên quá nhiều, dương thiên thịnh ở đầu, mắt nên ngoài biểu hiện chóng mặt còn có thêm biểu hiện đầu trướng, đầu đau, đau mắt, trướng đau vùng sườn, đắng miệng, mạch huyền, tính tình cáu gắt nóng nảy. Nếu can hỏa thịnh (can hỏa tích thịnh, can kinh thực hỏa) thì ngoài triệu chứng của can dương thượng can ra còn có thêm triệu chứng thiên về hỏa về nhiệt biểu hiện đau đầu cường độ nhiều hơn, đau dữ dội, kiêm mắt đỏ, tai ù, có thể kiêm các chứng xuất huyết như nôn ra máu, chảy máu cam. Tuy nhiên trên bệnh nhân chỉ có biểu hiện của chóng mặt chứ không đau đầu, đau mắt, tai ù, không cáu gắt nóng nảy và không có các triệu chứng khác; triệu chứng nhiệt ở bệnh nhân cũng chỉ ở mức nhẹ nhàng. Như vậy ta thấy triệu chứng bệnh can trên bệnh nhân tương đối nhẹ nhàng chứ không nặng nề và rầm rộ nên ta có thể loại trừ hai nguyên nhân huyễn vựng thuộc thực chứng là can dương thượng cang và can hỏa thượng viêm nói trên.

Xét nguyên nhân huyễn vựng do tỳ vị hư nhược, đàm trọc trung trở. Đan khê tâm pháp có viết : ” vô đờm bất tác huyễn” nghĩa là không có đờm thì không gây huyễn vựng. Tỳ Vị hư tổn thì khí huyết không có nguồn mà sinh, tỳ thất kiện vận thì không vận hoá được đồ ăn thành tinh chất để nuôi cơ thể mà đọng tụ lại thành thấp thành đờm. Tỳ chủ thăng, Vị chủ giáng, Tỳ Vị hư thì đờm thấp sinh ra thanh dương không thăng, trọc âm không giáng mà gây nên huyễn vựng. Bệnh nhân có triệu chứng huyễn vựng nhưng không có triệu chứng của Tỳ Vị hư như ăn kém, đầy bụng, đại tiện lỏng loãng, đầu không nặng, mình mẩy tay chân không nặng nề, không có đờm, lưỡi không to bệu, không nhớt, mạch không nhu không hoạt nên ta cũng loại trừ nguyên nhân đờm trọc trung trở do Tỳ Vị hư tổn. Sau khi loại trừ các nguyên nhân trên ta thấy bệnh cảnh bệnh nhân phù hợp nhất với chứng hậu Can âm hư. Can âm hư phần lớn là do Can huyết hư tiển triển lên mà thành. Sách Tố vấn chí chân yếu đại luận viết : ” chư phong tác huyễn giai vu thuộc can” ý nói các loại phong gây huyễn vựng đều do can phong sinh ra. Can âm hư với biểu hiện, chóng mặt, trong người nóng, lòng bàn tay chân nóng, chất lưỡi đỏ, rêu vàng, tiểu vàng, mạch đới sác. Bệnh huyễn vựng chủ yếu là do tạng can nhưng tạng Tâm và tạng Thận cũng đóng vai trò quan trọng theo quan hệ ngũ hành tương sinh. Ất Quí đồng nguyên cho nên Can âm hư phần lớn là do Thận âm hư tiến triển lên mà thành vì can mộc dựa vào sự nuôi dưỡng của thận thủy. Vì thế thận âm hư sẽ dẫn đến can âm bất túc. Thực tế trên bệnh nhân ngoài triệu chứng âm hư ta còn thấy biểu hiện triệu chứng của thận hư là đau lưng, mỏi gối. Hơn nữa do bệnh nhân tuổi cao thận tinh bất túc, tinh không đủ thì tủy sẽ kém, tinh tủy kém thì không nuôi dưỡng được cho não, vì não là bể của tủy, nên cũng gây ra chứng huyễn vựng. Can mộc sinh Tâm hỏa, Can âm bất túc sẽ không sinh được Can huyết vì âm là mẹ của huyết. Can huyết hư thì không sinh được Tâm huyết nên bệnh nhân có biểu hiện dễ hồi hộp, động làm thì hồi hộp tăng kèm ra mồ hôi. Tinh tiên thiên của Thận suy, huyết hậu thiên của Can hư, làm cho huyết của Tâm thiếu thì càng dễ gây ra chứng Huyễn Vựng. Tóm lại bệnh lý ở đây là Can Thận âm hư, Tâm huyết hư. VII.Điều trị 1.Pháp Cảnh Nhạc toàn thư viết : “vô hư bất tác huyễn, vô hoả bất tác vựng”, nghĩa là không hư thì không chóng mặt, không có hoả thì không gây chao đảo vậy huyễn vựng là do hư hợp với hoả gây nên, phép chữa bổ hư giáng hoả. Hải Thượng Lãn Ông trong Y trung quan kiện viết: “bệnh chóng mặt trong phương thư đều chia ra phong, hàn, thử, thấp, khí, huyết, đờm để chữa, đại ý không ngoài chữ hỏa. Âm huyết hậu thiên hư thì hoả động lên, chân thuỷ tiên thiên suy thì hoả bốc lên, bệnh nhẹ thì chữa hậu thiên, bệnh nặng thì chữa tiên thiên”. Vì thế, trong trường hợp này pháp điều trị là Bình can tức phong, Tư âm bổ Can Thận, dưỡng tâm an thần 2.Phương 2.1.Phương huyệt

Thông huyệt Túc lâm khấp

Bình can tức phong: Thái xung, Bách hội, Phòng trì (Đ), Ế phong (Tt)

Bổ thận âm: Tam âm giao, Phục lưu, Âm cốc.

Bổ Can âm huyết: Tam âm giao, Khúc tuyền, Can du

Dưỡng Tâm huyết: Thiếu hải, Tâm du

An thần: An miên 1, An miên 2, Nội quan, Thần môn

-Phương huyệt 1: Túc lâm khấp, Thái xung, Bách hội, Ế phong, Tam âm giao, Phục lưu, Khúc tuyền, Thiếu hải, An miên 1, Nội quan. -Phương huyệt 2: Túc lâm khấp, Thái xung, Bách hội, Phong trì, Tam âm giao, Âm cốc, Can du, Tâm du, An miên 2, Thần môn 2.2.Phương thang: Để tư âm bổ can thận, dưỡng tâm an thần trong trường hợp này tôi dùng bài Lục vị Quy thược gia vị Để tư âm bổ can thận, dưỡng tâm an thần, bình can tức phong trong trường hợp này tôi dùng bài Kỷ cúc địa hoàng hoàng (Y cấp) gia giảm. Kỷ cúc địa hoàng hoàng (Y cấp) gia giảm

Thục địa 20g (bổ Thận âm)

Sơn thù 16g (bổ Can âm)

Hoài sơn 12g (bổ Tỳ âm)

Đan bì 08g (thanh Can hỏa, giảm bớt tính ôn của Sơn thù)

Phục thần 08g (kiện tỳ an thần)

Trạch tả 08g (tả Thận hỏa, giảm bớt tính nên trệ của Thục địa)

Đương quy 16g (bổ huyết, hoạt huyết)

Bạch thược 12g (bổ Can âm, bổ huyết)

Kỷ tử 12g (tư bổ Can Thận, bổ huyết, minh mục, nhuận Phế)

Cúc hoa 12g (sơ tán phong nhiệt, minh mục, giáng áp, chỉ thống)

Long nhãn 12g (bổ Tâm Tỳ, dưỡng huyết, an thần, định chí)

Táo nhân 12g (dưỡng tâm an thần)

Hoàng kỳ 16g (ích khí)

Đẳng sâm 20g (ích khí)

Bệnh án Viêm Khớp Dạng Thấp

I.PHẦN HÀNH CHÍNH -Họ và tên bệnh nhân: NGUYỄN THỊ LẶNG -Giới: Nữ -Tuổi: 53 -Địa chỉ: 249 Nguyễn Sinh Cung, Vĩ Dạ, Huế -Nghề nghiệp: Làm ruộng -Số vào viện: 690 -Ngày giờ vào viện: ngày 18/05/2009 -Lí do vào viện: Đau nhức các khớp II.BỆNH SỬ 1.Quá trình bệnh lý: Khởi bệnh cách đây 3 năm với đau nhức khớp cổ tay trái, đau sưng nóng nhưng không đỏ, đau nhiều hơn về đêm, khi trời lạnh và khi thay đổi thời tiết. Bệnh nhân đã điều trị tây y có đỡ nhưng không hoàn toàn, thỉnh thoảng vẫn tái phát đau nhức cổ tay trái, chưa có biến dạng khớp cổ tay trái. Cách đây 1 năm khớp cổ tay trái đỡ đau nhiều nhưng lại chuyển sang đau nhức các khớp khác như khớp cổ tay phải, khớp khủy và khớp gối, khớp cổ chân hai bên. Sưng đau nóng không đỏ, về đêm, trời lạnh, trở trời đau tăng, vận động đau tăng, đi lại cử động khó khăn. Bệnh nhân đã điều trị tây y, đông y nhưng không đỡ, lần này xin vào bệnh viện Y học cổ truyền điều trị. Trong quá trình điều trị bằng châm cứu, dùng thuốc như Hoàn dưỡng cốt 15g 3 lần/ngày, Hoàn thập toàn 30g 3 lần/ngày và Độc hoạt tang ký sinh gia giảm, bệnh nhân đỡ 50%. Thăm khám khi vào viện:

·

Mạch: 80 lần/phút

Nhiệt: 370C

Tần số thở: 18 lần/phút

Huyết áp 90/60 mmHg

Tổng trạng gầy, tỉnh táo, tiếp xúc tốt

Đau khớp cổ tay, khớp khủy, khớp gối, khớp cổ chân hai bên

Sưng khớp gối hai bên

Biến dạng khớp cổ tay, các khớp khác chưa có biến dạng

Nhịp tim đều, T1, T2 nghe rõ

Không ho, không khó thở

Bụng mềm, gan lách không sờ thấy

Tiểu bình thường, hai thận không sờ thấy

Các cơ quan khác chưa phát hiện bệnh lý

PHẦN THĂM KHÁM TÂY Y

I.Thăm khám tổng quát: -Tổng trạng gầy -Tỉnh táo, tiếp xúc tốt -Mặt hồng hào, kết mạc mắt hồng -Không phù, không xuất huyết dưới da -Tuyến giáp không lớn, hạch ngoại biên không sờ thấy -Biến dạng khớp cổ tay hai bên, hạn ché vận động, không teo cơ hai chi trên, hai chi dưới -Mạch: 85 lần/phút -Nhiệt: 370C -Tần số thở: 18 lần/phút -Huyết áp 90/60 mmHg II.Thăm khám cơ quan: chúng tôi mạch: -Nhịp tim đều, tần số 85 lần/phút -T1, T2 nghe rõ, không nghe tiếng tim bệnh lý 2.Hô hấp: -Lồng ngực bình thường -Không ho, không khó thở, nhịp thở 18 lần/phút -Không nghe ran 3.Tiêu hóa: -Bụng mềm, không chướng, không có u cục -Đại tiện bình thường, gan lách không sờ thấy 4.Thận-tiết niệu: -Tiểu bình thường, không tiểu buốt, tiểu rát -Nước tiểu trong, số lượng bình thường -Hai thận không sờ thấy 5.Thần kinh: -Không có dấu thần kinh khu trú -Phản xạ gân xương chi trên và chi dưới hai bên bình thường -Không có rối loạn cảm giác 6.Cơ xương khớp: -Biến dạng khớp cổ tay hai bên, hạn chế vận động -Không có teo cơ hai chi trên, hai chi dưới chúng tôi mũi họng: -Không đau tai, không nhức đầu -Chưa phát hiện bệnh lý tai mũi họng 8.Các cơ quan khác: -Chưa phát hiện bệnh lý III.Cận lâm sàng Công thức máu: 20/05/2009

Hồng cầu 3,38×106/mm3

Hb 9,2 g/dl

Hct 27,6 %

Bạch cầu 7,0 x103/mm3

Trung tính 0,6 x103/mm3 chiếm 7,6%

Lympho 1,6 x103/mm3 chiếm 23,8%

Gran 4,8 x103/mm3­­ chiếm 68,6%

Tiểu cầu 264.103/mm3

Nước tiểu 19/05/2009

Điện tâm đồ 19/05/2009 Nhịp xoang, tần số 100 lần/phút Trục trung gian Glucose máu 88mg/dl (19/05/2009) HbsAg (-) (19/05/2009)

IV.Tóm tắt biện luận chẩn đoán: Bệnh nhân nữ 53 tuổi, người gầy, tiền sử đau khớp cổ tay trái, vào viện vì đau các khớp, qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng em rút ra các dấu chứng và hội chứng sau: Dấu chứng đau:

Đau nhức âm ỉ khớp cổ tay, khớp khủy, khớp gối, khớp cổ chân hai bên, đau tăng nhiều về đêm, khi trời lạnh và khi thay đổi thời tiết

Biến dạng khớp cổ tay hai bên

Sưng đau đối xứng

Dấu chứng cận lâm sàng

Bạch cầu Lympho chiếm nhiều hơn bạch cầu trung tính (1,6 x103/mm3 chiếm 23,8% so với 0,6 x103/mm3 chiếm 7,6%)

Các dấu chứng âm tính khác

Không có cứng khớp buổi sáng

Không teo cơ

Chẩn đoán sơ bộ: Viêm khớp dạng thấp Biện luận: Căn cứ theo tiêu chuẩn của hội thấp học Mỹ ARA 1987 thì bệnh nhân đã có 4 trong 7 tiêu chuẩn một là sưng đau tối thiểu 3 trong 14 nhóm khớp: khớp cổ tay, khớp khuỷu, khớp gối, khớp cổ chân hai bên, thời gian kéo dài trên 6 tuần; hai là sưng đau tối thiểu một trong ba khớp nhỏ: khớp cổ tay hai bên kéo dài trên 6 tuần; ba là sưng đau đối xứng; bốn là xquang có hình ảnh thoái hóa khớp mặc dù bệnh nhân chưa có chụp phim x-quang nhưng ta đã thấy biến dạng khớp cổ tay hai bên. Vì vậy chẩn đoán trên bệnh nhân ở đây là viêm khớp dạng thấp. Mắc khác, theo tiêu chuẩn của Việt nam thì chẩn đoán viêm khớp dạng thấp trên bệnh nhân này là đã rõ ràng với các đặc điểm, phụ nữ, tuổi 53, viêm các khớp nhỏ ở hai bàn tay (khớp cổ tay hai bên), phối hợp với khớp gối, sưng đau đối xứng và tình trạng này kéo dài trên hai tháng. Dựa vào vận động và tổn thương X-quang, ta có thể nói giai đoạn viêm khớp dạng thấp trên bệnh nhân là ở giai đoạn 2 theo Steinbroker với đặc điểm vận động khớp hạn chế, bệnh nhân vẫn còn cầm nắm được, đi lại được, thực hiện được các sinh hoạt hằng ngày, mặc dù x-quang chưa có nhưng với hình ảnh biến dạng khớp cổ tay hai bên đồng thời thời gian mắc bệnh của bệnh nhân là trên hai năm (những thay đổi đặc trưng của viêm khớp dạng thấp trên x-quang sau khởi bệnh 2 năm là khoảng 50%) ta có thể nói hình ảnh xquang ở đây nếu chụp ra sẽ tương xứng với giai đoạn 2. Ta không nghĩ viêm khớp ở đây bệnh cảnh của bệnh Gút mặc dù cũng có biểu hiện viêm nhiều khớp nhưng bệnh Gút thường có nổi u cục quanh khớp, tiền sử thường có đau khớp bàn ngón chân cái dữ dội, và thường gặp ở nam giới, định lượng acid uric máu tăng. Ta cũng loại trừ biểu hiện viêm khớp trong bệnh tạo keo như bệnh lupus ban đỏ hệ thống vì ngoài viêm khớp bệnh nhân phải có biểu hiện toàn thân, nội tạng như gan lách hạch to, thể trạng suy sụp, thiếu máu… Đồng thời cũng loại trừ thoái hóa khớp vì trong thoái hóa khớp triệu chứng đau mỏi là dấu hiệu chủ yếu, ít khi thấy sưng nóng đỏ. Chẩn đoán cuối cùng: Viêm khớp dạng thấp thể trung bình Xét nghiệm đề nghị: phản ứng Waler Rose, test Latex, x-quang khớp cổ tay hai bên, khớp khuỷu, khớp gối và khớp cổ chân hai bên. V. Tiên lượng: Dè dặt do bệnh nhân viêm nhiều khớp, khả năng tái phát cao, đã có biến dạng khớp cổ tay hai bên, điều trị đáp ứng trung bình, đỡ khoảng 5/10 VI.Điều trị: Nguyên tắc chung

VKDT là bệnh mạn tính kéo dài hàng chục năm, đòi hỏi quá trình điều trị phải kiên trì, liên tục có khi đến hết cả đời.

Điều trị phải kết hợp chặt chẽ giữa nội khoa, lý liệu phục hồi chức năng

Thời gian điều trị chia làm nhiều giai đoạn nội trú, ngoại trú và điều dưỡng.

Trong quá trình điều trị cần theo dõi chặt chễ diễn biến của bệnh và các tai biến biến chứng có thể xảy ra.

Điều trị thể trung bình, giai đoạn II – Dùng một trong các loại thuốc chống viêm non-steroid sau:

Aspirin 1-2g/ngày.

Indomethacin 25mg x 2-6 viên.

Phenylbutason 100mg x 1-2 viên.

Voltaren 25mg x 2-6 viên.

Felden 10mg x 1-2 viên.

Tilcotil 10mg x 1-2 viên. v.v…

Rofecoxib (Vioxx, Fecob) 25mg x 1 viên/ngày.

Delagyl 0,2-0,4mg/ngày.

– Có thể dùng corticoid liều trung bình 40mg Prednisolon mỗi ngày rồi giảm dần, không nên dùng kéo dài. – Kết hợp điều trị vật lý, xoa bóp, châm cứu VII.Phòng bệnh: -Không làm việc ở nơi ẩm thấp -Giữ ấm cơ thể, tránh lạnh, ẩm thấp -Nâng cao thể trạng

PHẦN THĂM KHÁM ĐÔNG Y

I.Vọng: -Mắt sáng, tỉnh táo -Người mệt mỏi, sắc mặt nhạt, sắc môi nhạt -Chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi vàng, mỏng, ướt, lưỡi không to bệu, không có dấu răng, không lệch, không run -Thể trạng gầy, da lông nhuận, không phù, có cứng khớp, biến dạng khớp cổ tay hai bên nhưng không teo cơ, chân tay không run, đi đứng hạn chế -Thái độ hòa nhã, không cáu gắt

II.Văn: -Tiếng nói nhỏ yếu -Không khó thở, hơi thở không hôi -Không ho, không nấc, không buồn nôn, không nôn III.Vấn: -Sợ nóng, không sợ lạnh, không sốt -Không tự hãn, không đạo hãn -Ăn kém, không ngon miệng, khát nước -Nước tiểu vàng, ít, tiểu đêm 3 lần/đêm -Đại tiện táo -Hay đau đầu, không đau tai, không ù tai -Đau nhức khớp cổ tay, khớp khuỷu, khớp gối và khớp cổ chân hai bên. Đau sưng nóng, không đỏ. Đau tăng khi trời lạnh, khi về đêm và khi thay đổi thời tiết. Đau làm hạn chế vận động các khớp. Đau nhức không tê -Không đau ngực, không đau bụng -Mỏi lưng -Khó ngủ IV.Thiết: -Mạch đới sác, 85 lần/phút, trầm tế – Người nóng, mình nóng, tay chân, lòng bàn tay bàn chân nóng -Bụng không đau, không u cục -Vận động đau khớp cổ tay hai bên, không thích xoa V.Biện chứng luận trị Bệnh nhân nữ 53 tuổi, người gầy, tiền sử đau khớp cổ tay trái, vào viện vì đau các khớp, qua hỏi bệnh sử, thăm khám lâm sàng em rút ra các dấu chứng và hội chứng sau: Biểu chứng -Bệnh ở nông, tại kinh lạc, ở cơ xương khớp Lý chứng -Bệnh ảnh hưởng đến tạng phủ Tỳ, Can, Thận -Tỳ hư: ăn kém, không ngon, sắc môi nhợt -Can: đau đầu, cứng khớp -Thận: khó ngủ, tiểu đêm, mỏi lưng, biến dạng khớp cổ tay hai bên -Mạch trầm Nhiệt chứng: -Rêu lưỡi vàng -Khát nước -Tiểu vàng, ít -Đại tiện táo -Người nóng, mình nóng, tay chân, lòng bàn tay chân nóng -Mạch đới sác Thực chứng -Bệnh khởi phát đợt cấp với đau nhức các khớp: khớp cổ tay, khớp khuỷu, khớp gối, khớp cổ chân, hạn chế vận động, đi lại khó, đau tăng khi trời lạnh, tăng về đêm và khi thay đổi thời tiết. Hư chứng -Bệnh mạn tính -Người mệt mỏi, tiếng nói nhỏ, yếu, sắc mặt nhợt -Ăn kém, không ngon miệng, sắc môi nhạt -Lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng -Mạch tế Chẩn đoán bệnh danh : Tý chứng Chẩn đoán bát cương : Biểu lý hư thực nhiệt Chẩn đoán tạng phủ, kinh lạc : Kinh lạc, tạng phủ (Tỳ, Can, Thận) Chẩn đoán nguyên nhân : Ngoại nhân (Phong thấp nhiệt) Pháp điều trị : Thanh nhiệt trừ thấp khu phong, hành khí, hoạt huyết, kiện tỳ bổ khí, bổ can thận, cường gân cốt Đông y không có bệnh danh viêm khớp dạng thấp mà nó thuộc phạm trù chứng tý của động y. Tý nghĩa là bế, chỉ khí huyết kinh lạc bị trở trệ do tà khí xâm nhập vào gây ra. Chẩn đoán bát cương là biểu lý hư thực nhiệt. Biểu là vì bệnh ở tại kinh lạc, bệnh ở cơ xương khớp, đau nhức các khớp: khớp cổ tay, khớp khuỷu, khớp gối, khớp cổ chân, hạn chế vận động, đi lại khó, đau tăng khi trời lạnh, tăng về đêm và khi thay đổi thời tiết. Thực biểu hiện bệnh khởi phát đợt cấp với sưng đau các khớ, cự án. Nhiệt biểu hiện khát nước, rêu lưỡi vàng, tiểu vàng, ít, đại tiện táo, người nóng, mình nóng, tay chân, lòng bàn tay chân nóng, mạch đới sác. Hư biểu hiện bệnh mắc đã lâu, lần này khởi phát đợt cấp trên nền mạn tính, đã có biến dạng khớp cổ tay hai bên, người mệt mỏi, tiếng nói nhỏ, yếu, ăn kém, không ngon miệng, sắc môi nhạt, lưỡi nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế. Lý biểu hiện là bệnh đã ảnh hưởng đến tạng phủ mà ở đây là Tỳ, Can, Thận. Tỳ khí hư biểu người mệt mỏi, tiếng nói nhỏ yếu, sắc mặt nhợt, sắc môi nhợt, ăn kém, không ngon, sắc môi nhợt. Can huyết hư biểu hiện đau đầu, cứng khớp, sắc mặt nhợt, môi nhợt. Thận hư biểu hiện khó ngủ, tiểu đêm, mỏi lưng, biến dạng khớp cổ tay hai bên và mạch trầm tế. Nguyên nhân của chứng tý, chứng tê thấp có thể do thể chất yếu, dương khí hư, vệ khí dương không đủ bảo vệ cơ thể, phong, hàn, thấp tà xâm nhập. Kèm với sự thay đổi khí hậu đêm lạnh, ngày nóng… vệ khí phía ngoài không thể chống đỡ nổi, dễ bị hàn khí và phong lạnh xâm nhập gây bệnh. Hoặc ăn uống không điều độ, tổn thương tỳ vị, vận hóa không đủ, sinh ra thủy thấp ngưng lại ở trong, rồi thấp ở trong và ở ngoài cùng dẫn đến. Nội Kinh nói: “Ẩm thực, cư xứ, vị kỳ bệnh bản” nghĩa là ăn uống, nơi ở là gốc rễ của sự phát bệnh. Y Tông Kim Giám nói: “Do nguyên khí, tinh khí bên trong trống rỗng, cho nên 3 khí tà phong, hàn, thấp xâm nhập, không biết giải trừ đi, thì nó sẽ lưu trú tại kinh lạc, lâu ngày thành chứng tê thấp”. Nguyên nhân ở đây là do phong thấp nhiệt. Phong với đặc điểm là cấp là động, là thay đổi, biểu hiện trên bệnh nhân là khởi phát cấp, lúc nhẹ lúc nặng, đau khớp di chuyển từ khớp này sang khớp khác. Thấp biểu hiện đau tăng khi thay đổi thời tiết, đau tăng về đêm. Mặc khác, bệnh nhân thể trạng gầy, người gầy thì hỏa nhiều, cộng với ăn uống kém hoặc ăn uống không điều độ dẫn đến tì vị vận hóa không mạnh mà sinh ra thấp, thấp trong cộng với thấp ngoài mà gây nên bệnh. Nhiệt tý hình thành là do ngoại cảm phong, hàn, thấp tà ứ đọng lâu ngày hóa nhiệt, hoặc phong thấp nhiệt tà từ ngoài xâm nhập, vào người mà cơ thể vốn có dương thịnh, trong người vốn đã ôn nhiệt. Cho nên Y Học Cổ Phương nói: “… Tạng, phủ, kinh lạc, trước vốn đã tích nhiệt, sau còn bị phong, hàn, thấp ở ngoài kinh nhập vào, nhiệt bị hàn làm ứ đọng lại, khí không thông được, lâu quá hàn hóa nhiệt mà thành Phong thấp Nhiệt”. Bệnh mắc đã lâu, phong hàn thấp lâu ngày không giải xâm nhập vào tạng phủ, ảnh hưởng khí huyết dẫn đến các biểu hiện bệnh lý của Tỳ Can Thận, khí, huyết như đã nói ở trên. Vậy thể bệnh ở đây là thể phong thấp nhiệt. Vì bệnh khởi phát đợt cấp trên nền mạn tính đã ảnh hưởng đến tạng phủ, nguyên nhân phong hàn thấp xâm nhập lâu ngày mà chủ yếu là phong thấp nhiệt nên nguyên tắc điều trị vẫn là điều trị đợt cấp kèm điều trị tạng phủ bị thương tổn. Trị phong tiên trị huyết, huyết hành phong tự diệt. Can chủ cân, thận chủ cốt, tỳ vận hóa thủy thấp, chứng tê thấp thường làm tổn thương gân cốt. Cho nên bổ can ích thận là làm mạnh gân cốt, thì trợ cho việc trừ phong, hàn, thấp, nhiệt, đồng thời tỳ kiện vận cũng trợ lực cho việc trừ thấp. Cho nên pháp điều trị là thanh nhiệt trừ thấp khu phong, hành khí, hoạt huyết, kiện tỳ bổ khí, bổ can thận, cường gân cốt VII.Điều trị

PHÁP ĐIỀU TRỊ Thanh nhiệt trừ thấp khu phong, hành khí, hoạt huyết, kiện tỳ bổ khí, bổ can thận, cường gân cốt

CHÂM CỨU

Thanh nhiệt: các huyệt tại chỗ và a thị huyệt

Khu phong: Phong trì, phong phủ, phong môn, hợp cốc

Trừ thấp, kiện tỳ: Thái bạch, Âm lăng tuyền, Túc lam lý, Xung dương, Tỳ du, Vị du, Tam âm giao

Hành khí hoạt huyết: Huyết hải, Cách du, Túc tam lý

Bổ can thận: Thái xung, Khúc tuyền, Thái khê, Âm cốc, Can du, Thận du

Tham khảo

Khớp khuỷ tay: Khúc Trì (Đtr.11) + Khúc Trạch (Tb.3) + Thủ Tam Lý (Đtr.10) + Thiếu Hải (Tm.3) + Thiên Tỉnh (Ttu.10)

Cổ tay: Ngoại Quan (Ttu.5) + Dương Khê (Đtr.5) + Dương Trì (Ttu.4) + Uyển Cốt (Ttr.4) + Đại Lăng (Tb.7).

Khớp gối: Độc Tỵ (Vi.35) + Tất Nhãn + Lương Khâu (Vi.34) + Túc Tam Lý (Vi.36) + Âm Lăng Tuyền (Ty.9) + Dương Lăng Tuyền (Đ.34) + Uỷ Trung (Bq.40)

Khớp cổ chân: Giải Khê (Vi.41) + Thương Khâu (Ty.5) + Khâu Khư (Đ.40) + Thái Khê (Th.3) + Côn Lôn (Bq.60) + Dương Giao (Đ.35) + Giao Tín (Th.8).

THUỐC Trước dùng bàiThương truật phòng kỷ thang gia vị (Thiên gia diệu phương) Thương truật 12g, Phòng kỷ 12g, Thông thảo 12g, ý dĩ 15g, Địa long 12g, Ngưu tất 12g, Tô mộc 9g, Bồ công anh 30g, Kim ngân hoa 24g, Liên kiều 12g, Cam thảo 4,5g. Hoặc bài Bạch hổ thang gia giảm Sau dùng Bài Độc hoạt tang ký sinh gia giảm Phòng phong 16g (Khu phong) Độc hoạt 12g (Khu phong thấp) Tần giao 10g (Khu phong thấp) Thục địa 12g (Bổ âm bổ huyết) Bạch thược 12g (Bổ can âm) Đương quy 12g (Hoạt huyết, bổ huyết) Xuyên khung 10g (Hoạt huyết) Trần bì 06g (Hành khí) Đẳng sâm 16g (Bổ khí) Phục linh 10g (Lợi thấp) Chích thảo 06g (Điều hòa vị thuốc) Bạch truật 12g (Kiện tỳ bổ khí) Đỗ trọng 12g (Bổ thận, cường gân cốt) Ngưu tất 12g (Hoạt huyết, bổ can thận, cường gân cốt) Tang ký sinh 12g (Khu phong thấp, bổ can thận, cường gân cốt)

Các Bệnh Xã Hội Phổ Biến

Bệnh xã hội là gì?

Các bệnh xã hội phổ biến

Hầu hết các bệnh xã hội là do virut, vi khuẩn, kí sinh trùng gây nên, con đường lây nhiễm chủ yếu là thông qua quan hệ tình dục không an toàn. Bệnh xã hội có thể gặp ở cả nam giới và nữ giới. Những người có nguy cơ cao như: gái mại dâm, khách làng chơi, người có nhiều bạn tình, người có quan hệ tình dục đồng tính nam, người nghiện mà túy… Một số bệnh xã hội phổ biến:

Bệnh lậu (lậu mủ)

Lậu hay còn gọi là bệnh lậu mủ là một trong những bệnh xã hội nguy hiểm và phổ biến nhất hiện nay, do song cầu khuẩn lậu gây ra, bệnh có thể gặp ở cả nam giới và nữ giới. Khả năng lây nhiễm của bệnh lậu là rất mạnh, con đường lây nhiễm chủ yếu thông qua quan hệ tình dục không an toàn (95%). Nguyên nhân là do da và niêm mạc ở bộ phận sinh dục rất mỏng, có chứa nhiều mạch máu, khi quan hệ tình dục rất dễ gây ra những tổn thương nhỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho song cầu khuẩn lậu xâm nhập vào cơ thể.

– Ở nam giới, sau khi nhiễm song cầu khuẩn lậu khoảng 3 đến 5 ngày sẽ có những triệu chứng lâm sàng như: Tiểu khó, tiểu buốt, tiểu nhiều lần, chảy mủ ở lỗ niệu đạo (lỗ tiểu), lỗ niệu đạo sưng đỏ, ngứa và đau… Nếu không được phát hiện và điều trị hoặc điều trị không đúng có thể dẫn tới một số biến chứng như: viêm tuyến tiền liệt, viêm mào tinh hoàn, viêm tinh hoàn… thậm chí dẫn tới vô sinh.

– Ở nữ giới, thông thường ít có các triệu chứng cấp tính, những biểu hiện có thể gặp là: Tiểu rát buốt, lỗ niệu đạo sưng đỏ, tiết dịch nhờn, có cảm giác nóng rát vùng ngoài âm đạo, ra khí hư kèm mủ vàng… Nếu không được phát hiện và điều trị hoặc điều trị không đúng có thể dẫn tới một số biến chứng như: Viêm ống dẫn trứng, viêm phần phụ, viêm nội mạc tử cung…

Bệnh lậu hoàn toàn có thể chữa dứt điểm nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng phương pháp, đầy đủ phác đồ. Tuy nhiên, nếu không được điều trị, điều trị không đúng hoặc điều trị không đủ thì rất dễ dẫn tới tình trạng nhờn thuốc, chuyển thành lậu mãn tính, gây rất nhiều khó khăn cho việc chữa trị sau này. Do đó, ngay khi có những triệu chứng nghi ngờ là bệnh lậu, bạn nên đi khám để được chẩn đoán và điều trị sớm.

Bệnh sùi mào gà (mụn cóc sinh dục)

– Sùi mào gà là bệnh xã hội do virus Human PapillomaVirus (HPV) gây ra. Tuy không phải là bệnh xã hội quá nguy hiểm trong phần lớn các trường hợp nhưng lại rất phổ biến và gây ra nhiều phiền toái cho người bệnh.

– Phần lớn sùi mào gà là các u nhú lành tính, không gây nhiều nguy hiểm, nhưng trong một số trường hợp, sùi mào gà có thể dẫn tới ung thư cổ tử cung, ung thư dương vật, ung thư hậu môn…

– Sùi mào gà vẫn chưa có thuốc điều trị tận gốc, sau khi loại bỏ các triệu chứng của bệnh, virus HPV vẫn tiếp tục tồn tại trong cơ thể người bệnh, và có thể tái phát bất cứ khi nào có điều kiện thuận lợi. Khi nhiễm virus HPV gây bệnh sùi mào gà, ngoài việc điều trị các triệu chứng (loại bỏ các u nhú gây bệnh sùi mào gà) bạn cần đặc biệt chú ý đến việc vệ sinh cá nhân, ăn uống đầy đủ dinh dưỡng, thường xuyên luyện tập thể thao nâng cao sức đề kháng của cơ thể để hạn chế nguy cơ tái phát bệnh.

Bệnh giang mai (syphilis)

Bệnh giang mai do xoắn khuẩn Treponema pallidum gây ra. Tuy ít phổ biến hơn bệnh lậu nhưng giang mai là bệnh đặc biệt nguy hiểm do xoắn khuẩn giang mai có thể xâm nhập và gây tổn thương ở hầu hết các cơ quan trong cơ thể như hệ thần kinh, hệ tim mạch…

Giang mai có thời gian ủ bệnh khoảng 3 – 4 tuần, sớm nhất là 10 ngày và muộn nhất là 90 ngày. Các triệu chứng của bệnh giang mai rất đa dạng, tùy theo từng giai đoạn của bệnh mà có những biểu hiện đặc trưng khác nhau.

Bệnh giang mai tuy vô cùng nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể chữa khỏi hẳn nếu được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đúng chỉ dẫn của bác sĩ.

Các bệnh xã hội không chỉ gây tổn hại rất lớn đến sức khỏe của người bệnh mà còn có nguy cơ lây nhiễm cho người khác bởi khả năng truyền nhiễm là rất mạnh. Sau khi bị nhiễm bệnh nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời, điều trị đúng phương pháp sẽ gây nên những tổn thương nghiêm trọng đến sức khỏe, thậm chí gây vô sinh. Một số bệnh như giang mai còn có thể gây ra các tổn thương trên các cơ quan quan trọng của cơ thể như tim và não, đe dọa đến tính mạng người bệnh. Một số bệnh sau khi đã nhiễm thì rất khó để điều trị triệt để như: sùi mào gà, mụn rộp sinh dục (việc điều trị chỉ ngăn chặn các triệu chứng bệnh chứ không thể tiêu diệt hoàn toàn tác nhân gây bệnh).

Cách tốt nhất để phòng tránh các bệnh xã hội là quan hệ tình dục an toàn (sử dụng bao cao su), chung thủy 1 vợ – 1 chồng. Ngoài ra cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, xây dựng một lối sống khoa học để nâng cao sức khỏe và khả năng miễn dịch của cơ thể, hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ nhiễm bệnh.