Top 10 # Một Bệnh Di Truyền Hiếm Gặp Ở Người Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Một Số Bệnh, Tật Di Truyền Thường Gặp Ở Người

Bệnh di truyền là gì? Bệnh di truyền hay cụ thể hơn là các bệnh di truyền ở người xảy ra do nguyên nhân từ những bất thường về gen hoặc nhiễm sắc thể. Bệnh di truyền là những bệnh do bố mẹ truyền sang cho con cái do những bất thường về gen. Bệnh về nhiễm sắc thể (NST) là bệnh được gây ra do mất NST, bất thường hoặc thừa NST.

Bệnh mù màu: Bệnh rối loạn sắc giác hay loạn sắc giác thường được gọi là bệnh mù màu. Đây là căn bệnh có nguyên nhân chủ yếu là di truyền. Bệnh nhân không thể phân biệt được màu sắc, có thể là không phân biệt được màu đỏ, xanh hoặc không biệt được tất cả màu sắc.

Hội chứng Down (tên tiếng Anh là Down Syndrome) là một rối loạn về di truyền xảy ra khi sự phân chia tế bào bất thường dẫn đến việc có thêm một hoặc một phần bản sao của nhiễm sắc thể số 21. Vật chất di truyền tăng thêm này gây ra những thay đổi trong sự phát triển và biểu hiện về thể chất của hội chứng Down.

Tật di truyền có túm lông ở tai và dính ngón tay 2, 3: Đây là một dạng tật di truyền ở người, do đột biến gen trên nhiễm sắc thể Y gây ra tật này, nên hai tật chỉ có thể gặp ở nam giới. Người bố có tật này thì chắc chắn sinh ra con trai cũng sẽ bị tật giống như bố.

Hội chứng Turner: Nguyên nhân bệnh được phát hiện là do mất một phần hoặc toàn bộ một nhiễm sắc thể (NST) giới tính X trong bộ gen người. Đây là rối loạn NST giới tính thường gặp nhất ở nữ, gây rối loạn phát triển thể chất và tâm thần. Người bị HC Turner thường có các đặc điểm như vóc dáng nhỏ, suy buồng trứng, nếp da dầy ở gáy, dị tật bẩm sinh tim, khiếm thính nhẹ…

Hội chứng Edward (tam thể 18): Đây cũng là một dị tật bẩm sinh nặng gây sẩy thai, chết sau sinh. Rất ít trẻ mắc hội chứng Edward sống quá một tuổi. Dị tật bẩm sinh về tim, đầu nhỏ, thoát vị rốn rất hay gặp, trí tuệ và vận động đếu rất kém phát triển. Nếu sống sót, trẻ mắc hội chứng tam thể 18 cũng không có khả năng đi lại, nói, do đó phụ thuộc hoàn toàn vào sự chăm sóc của người khác.

Bệnh tim: Các căn bệnh về tim mạch hiện nay đang dẫn đầu về nguyên nhân gây tử vong ở phụ nữ. Nguy hiểm hơn, bệnh tim mạch còn được chứng minh có nguy cơ di truyền qua thế hệ rất cao. Hãy cân nhắc các biện pháp giảm thiểu nguy cơ ngay từ khi còn trẻ, bao gồm cả việc duy trì thói quen sống lành mạnh, đồng thời thường xuyên khám sức khỏe tim mạch để kiểm tra tình trạng bản thân.

Hội chứng nhiễm sắc thể X dễ gãy: Hội chứng nhiễm sắc thể X dễ gây ra các khuyết tật tâm thần di truyền và ảnh hưởng đến những người có testosterone cao và suy giảm buồng trứng sơ cấp. Hội chứng này gây ra một loạt các vấn đề phát triển, bao gồm suy giảm nhận thức và khuyết tật trí tuệ ở trẻ em.

Theo Hải Yến/VOV.VN Tổng hợp (Ảnh: Khai thác)

Chữa Thành Công 2 Bệnh Di Truyền Hiếm Gặp

Hai bệnh da hiếm gặp trên một người

Bé N.T.H.G., 12 tuổi, ngụ tại An Giang, mắc cả hai bệnh da hiếm gặp. Từ lúc 6 tháng tuổi, bé G. đã bị các mảng đỏ da rải rác toàn thân và đến 1 tuổi các mảng đỏ da chuyển dần thành màu nâu đen. Khi bé được 2 tuổi, vùng môi và niêm mạc miệng bị loét tái đi tái lại.

Gia đình đã đưa bé đi điều trị tại nhiều bệnh viện nhưng không khỏi mà bệnh ngày càng nặng và tái phát thường xuyên hơn.

Đến năm 7 tuổi, vùng miệng của bé bị xơ teo, đau, làm bé gặp nhiều khó khăn khi cử động. Sau đó, vùng hậu môn, sinh dục của bé G. cũng bị loét tái lại nhiều lần kèm đau nhức làm ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của bé.

Vài tháng gần đây, các vết loét vùng miệng, hậu môn, sinh dục không lành, gây đau nhức dữ dội. Gia đình đã đưa bé đến điều trị tại cơ sở 3 Bệnh viện Đại học Y dược. Tại đây, BS CKI Hoàng Văn Minh đã khám và làm các xét nghiệm chuyên sâu cho bé.

Theo BS CKI Hoàng Văn Minh, đây có lẽ là bệnh nhi đầu tiên trên thế giới được ghi nhận mắc hai bệnh hiếm gặp cùng lúc. Bệnh nhi có nhiều dát sắc tố phân bố theo đường cong dạng xoắn ốc khắp thân mình và các chi ngoại trừ mặt, đầu, lòng bàn tay bàn chân.

Trong khoang miệng và xung quanh vùng sinh dục bé xuất hiện nhiều vết loét hình tròn có bờ đỏ, giới hạn rõ, đường kính khoảng 1cm gây đau, tái phát nhiều lần.

Khi xác định được bệnh của bệnh nhi, các bác sĩ đã điều trị bằng các loại thuốc đặc trị. Sau 4 tháng điều trị, tình trạng lở loét đã biến mất hoàn toàn. Khuôn miệng trước đây không thể há to giờ đây đã có thể nói chuyện và ăn uống bình thường.

Sang thương được phân phối chủ yếu trên thân mình và các chi, hiếm khi bị ở lòng bàn tay, bàn chân, niêm mạc và thường xuất hiện trong 2 năm đầu tiên của cuộc đời.

BS CKI Hoàng Văn Minh cho biết đây là hai bệnh lý không gây nguy hiểm đến tính mạng, tuy nhiên bệnh Lichen gây ra nhiều đau đớn, bất tiện cho người bệnh. Nevus không gây đau đớn nhưng tạo nên những sang thương đặc trưng, gây ra những mặc cảm ngoại hình cho người bệnh.

Hiện các vết loét đã không còn, sau khi tình trạng bệnh nhi ổn định, các bác sĩ sẽ tiến hành bắn tia laser để điều trị bệnh Nevus cho cháu. Dự kiến 2 năm sau, các sắc tố sậm màu trên người bệnh nhi sẽ khỏi hẳn.

AGV – Bệnh viện Bệnh nhiệt đới T.Ư đang điều trị cho một bệnh nhân nam mắc loại bệnh hiện chưa xác định được.

Hội Chứng Di Truyền Và Bệnh Hiếm

Một hội chứng là một bệnh hoặc rối loạn có nhiều hơn một chức năng xác định hoặc triệu chứng. Mỗi hội chứng di truyền cụ thể sẽ có nhiều đặc điểm điển hình, tùy thuộc vào khía cạnh phát triển nào bị ảnh hưởng bởi các gen hoặc nhiễm sắc thể bất thường.

Một đứa trẻ có thể được sinh ra với dị tật cơ thể rõ ràng, chức năng cơ quan bất thường (ví dụ: tim, não, ruột hoặc thận) hoặc các vấn đề về thần kinh (ví dụ, khi cơ thể của trẻ sơ sinh hoặc em bé không thể nuôi dưỡng hoặc bú bình ). Tuy nhiên, nhiều hội chứng di truyền chỉ bắt đầu có hiệu lực khi em bé được sinh ra và bắt đầu bú và phát triển. Những đứa trẻ này có thể trông và hành động hoàn toàn bình thường khi sinh, nhưng sau đó phát triển các vấn đề sau này trong cuộc sống.

Mỗi tế bào trong cơ thể người chứa 23 cặp nhiễm sắc thể. Bạn thừa hưởng một bộ của cặp từ cha của bạn và một bộ từ mẹ của bạn. Mỗi nhiễm sắc thể được tạo thành từ nhiều gen, khoảng 2.000 trong mỗi nhiễm sắc thể, cho tổng số 50.000 gen trong mỗi tế bào. Những gen này tạo ra tất cả các protein trong cơ thể, thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng và thực hiện tất cả các chức năng của cơ thể.

Khi một hoặc nhiều gen hoặc nhiễm sắc thể này bị thiếu hoặc bị đột biến hoặc nếu có thêm nhiễm sắc thể, các protein có thể không được tạo ra, có thể được tạo ra không chính xác hoặc quá nhiều có thể được tạo ra. Bất kỳ tình huống nào trong số này có thể gây ra sự phát triển và tăng trưởng bất thường và có thể dẫn đến một hội chứng di truyền. Đôi khi những gen hoặc nhiễm sắc thể bất thường này được truyền từ cha mẹ và đôi khi chúng xảy ra một cách tự nhiên mà không có lý do.

Gần như tất cả các bệnh đều do thành phần di truyền. Một số bệnh được gây ra bởi các đột biến được di truyền từ cha mẹ và hiện diện ở một cá nhân khi sinh, giống như bệnh hồng cầu hình liềm. Các bệnh khác là do đột biến mắc phải trong một gen hoặc nhóm gen xảy ra trong cuộc sống của một người. Những đột biến như vậy không được di truyền từ cha mẹ, nhưng xảy ra ngẫu nhiên hoặc do một số tiếp xúc với môi trường, như khói thuốc lá. Chúng bao gồm nhiều bệnh ung thư, cũng như một số dạng u xơ thần kinh.

Một căn bệnh hiếm gặp là bất kỳ căn bệnh nào ảnh hưởng đến một tỷ lệ nhỏ dân số. Ở một số nơi trên thế giới, một đứa trẻ mồ côi là một căn bệnh hiếm gặp, hiếm có nghĩa là thiếu thị trường đủ lớn để có được sự hỗ trợ và nguồn lực để khám phá các phương pháp điều trị cho nó, ngoại trừ việc chính phủ cấp các điều kiện thuận lợi về kinh tế để tạo ra và bán như vậy phương pháp điều trị.

Hầu hết các bệnh hiếm gặp là do di truyền và do đó có mặt trong suốt cuộc đời của con người, ngay cả khi các triệu chứng không xuất hiện ngay lập tức. Nhiều bệnh hiếm gặp xuất hiện sớm trong đời và khoảng 30% trẻ em mắc bệnh hiếm sẽ chết trước khi đến sinh nhật thứ năm. Chỉ với ba bệnh nhân được chẩn đoán trong 27 năm, thiếu hụt isomase ribose-5-phosphate được coi là bệnh di truyền hiếm gặp nhất.

Không có con số giới hạn nào được thống nhất mà bệnh được coi là hiếm. Một căn bệnh có thể được coi là hiếm ở một nơi trên thế giới hoặc ở một nhóm người cụ thể, nhưng vẫn phổ biến ở một nơi khác.

Nguyên nhân gây bệnh hiếm gặp?

Nguyên nhân chính xác cho nhiều bệnh hiếm gặp vẫn chưa được biết. Tuy nhiên, đối với một phần đáng kể, vấn đề có thể bắt nguồn từ đột biến (thay đổi) trong một gen duy nhất. Những bệnh như vậy được gọi là hiếm, bệnh di truyền. Nhiều đột biến gen này có thể được truyền từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo, giải thích lý do tại sao một số bệnh hiếm gặp xảy ra trong các gia đình.

Điều quan trọng cần nhớ là di truyền chỉ là một phần của câu đố. Các yếu tố môi trường, chẳng hạn như chế độ ăn uống, hút thuốc hoặc tiếp xúc với hóa chất, cũng có thể đóng một vai trò trong các bệnh hiếm gặp. Các yếu tố như vậy có thể trực tiếp gây ra bệnh, hoặc tương tác với các yếu tố di truyền để gây ra hoặc làm tăng mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Có bao nhiêu bệnh hiếm gặp?

Cho đến nay, sáu đến bảy ngàn bệnh hiếm đã được phát hiện và các bệnh mới thường được mô tả trong tài liệu y khoa. Số lượng các bệnh hiếm gặp cũng phụ thuộc vào mức độ đặc hiệu được sử dụng khi phân loại các thực thể, rối loạn khác nhau.

Chỉ có một vài loại bệnh hiếm gặp được theo dõi khi một người được chẩn đoán. Chúng bao gồm một số bệnh truyền nhiễm, dị tật bẩm sinh và ung thư. Nó cũng bao gồm các bệnh trong các xét nghiệm sàng lọc sơ sinh. Bởi vì hầu hết các bệnh hiếm gặp không được theo dõi, thật khó để xác định chính xác số lượng bệnh hiếm gặp hoặc có bao nhiêu người bị ảnh hưởng.

Hơn 6000 bệnh hiếm gặp được đặc trưng bởi sự đa dạng của các rối loạn và triệu chứng khác nhau không chỉ từ bệnh này sang bệnh khác mà còn từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác mắc cùng một bệnh.

Các triệu chứng tương đối phổ biến có thể che giấu các bệnh hiếm gặp tiềm ẩn dẫn đến chẩn đoán sai và trì hoãn điều trị. Vô hiệu hóa, chất lượng cuộc sống của bệnh nhân bị ảnh hưởng do thiếu hoặc mất quyền tự chủ do các khía cạnh mãn tính, tiến triển, thoái hóa và thường xuyên đe dọa tính mạng của bệnh.

Thực tế là thường không có phương pháp chữa trị hiệu quả hiện có làm tăng thêm mức độ đau đớn và đau khổ chịu đựng của bệnh nhân và gia đình họ.

Một số ví dụ về bệnh hiếm gặp

Ví dụ về các bệnh hiếm gặp do đột biến gen đơn lẻ bao gồm xơ nang, ảnh hưởng đến hệ hô hấp và tiêu hóa, Bệnh Huntington ảnh hưởng đến não và hệ thần kinh và loạn dưỡng cơ ảnh hưởng đến cơ bắp.

Các gen đơn cũng chịu trách nhiệm cho một số loại ung thư hiếm gặp, di truyền. Ví dụ trong số này là các gen BRCA1 và BRCA2, trong đó các đột biến nhất định làm tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng di truyền và gen FAP, trong đó đột biến làm tăng nguy cơ ung thư ruột kết di truyền.

Latest posts by BS Võ Lan Phương ( see all)

Đứt Gân Bánh Chè: Một Loại Tổn Thương Không Hiếm Gặp

Gân bánh chè nằm ở vị trí trước gối, dưới xương bánh chè, có chức năng làm duỗi gối. Tổn thương gân bánh chè có thể gặp ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên thường gặp hơn là tuổi trung niên, đặc biệt là vận động viên điền kinh, nhảy cao. Khi đứt hoàn toàn gân bánh chè, bệnh nhân mất khả năng duỗi gối, điều trị bằng phẫu thuật là bắt buộc. Vị trí giải phẫu gân bánh chè

Gân bánh chè bám từ cực dưới xương bánh chè đến đầu trên xương chầy (hình 1).

Bám cực trên xương bánh chè là gân cơ tứ đầu. Như vậy gân bánh chè và gân cơ tứ đầu có vai trò như dây ròng rọc, rãnh liên lồi cầu đùi như ròng rọc. Khi cơ tứ đầu co sẽ kéo căng gân bánh chè, tạo nên động tác duỗi gối.

Mô tả

Gân bánh chè có thể tổn thương hoàn toàn hoặc không hoàn toàn.

Tổn thương không hoàn toàn: gân bánh chè được tạo nên bởi nhiều thớ sợi hợp lại, giống như dây cáp được tạo bởi nhiều sợi cáp. Tổn thương không hoàn toàn gân bánh chè là hiện tượng đứt ngầm, hay đứt một số thớ sợi nhất định trong gân, những thớ còn lại vẫn giữ được vai trò duỗi gối nhưng yếu hơn. Trong trường hợp này, gối có thể duỗi được nhưng yếu và duỗi không hết tầm.

Tổn thương hoàn toàn: là đứt hoàn toàn các thớ của gân bánh chè. Gân bánh chè thường đứt tại vị trí bám vào cực dưới xương bánh chè, có thể bong một phần chỗ bám. Khi đứt hoàn toàn, gân bánh chè co ngắn lại về hai phía, trên lâm sàng mất hoàn toàn khả năng duỗi gối. Nếu đứt gân bánh chè do bệnh lý (viêm gân), vị trí đứt thường là 1/3 giữa của gân.

Nguyên nhân

Chấn thương. Để đứt gân bánh chè phải có một lực chấn thương rất lớn

+ Ngã: một lực va chạm mạnh, trực tiếp vào trước gối do ngã hoặc bị đánh. Vết chém trực tiếp vào trước gối là nguyên nhân không hiếm gặp.

+ Nhảy cao. Gân bánh chè dễ bị tổn thương khi nhảy cao, chân tiếp đất trong tư thế gối gấp, bàn chân “duỗi” (gấp về phía gan chân) (hình 3).

Bệnh lý.Khi bệnh lý, gân bánh chè mất sức bền, rất dễ bị tổn thương. Khi đứt gân trên nền bệnh lý, gân thường đứt ở vị trí 1/3 giữa. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng này:

+ Bệnh lý mãn tính. Một số bệnh lý mãn tính dẫn đến tình trạng cấp máu kém cũng làm cho gân bánh chè bị yếu và đễ tổn thương:

– Suy thận mạn

– Viêm khớp dạng thấp

– Bệnh đái tháo đường

– Bệnh chuyển hóa

– Nhiễm trùng

– Một số bệnh lý bắt buộc sử dụng corticoid dài ngày

Phẫu thuật. Một số phẫu thuật xung quanh vùng gối trước đó như thay khớp gối, tái tạo dây chằng chéo trước bằng gân bánh chè tự thân đều làm tăng nguy cơ đứt gân bánh chè.

Triệu chứng

Ngay sau chấn thương, bệnh nhân cảm thấy đau và gối từ từ sưng lên, đồng thời xuất hiện các triệu chứng kèm theo:

– Sờ thấy vùng lõm (mất liên tục) ngay cực dưới xường bánh chè (nơi vị trí gân bánh chè bị rách)

– Bầm tím

– Chuột rút (co cơ)

– Xương bánh chè lên cao hơn bình thường

– Không thể duỗi hết gối

– Bước đi khó khăn

– Thăm khám.

+ Đã bao giờ bị chấn thương trực tiếp vào vùng gối chưa?

+ Có bị viêm gân bánh chè không?

+ Đã từng được phẫu thuật ở vùng gối chưa, ví dụ như phẫu thuật thay khớp gối, tái tạo dây chằng chéo trước bằng gân bánh chè tự thân.

+ Có mắc các bệnh mãn tính nào không?

– Thăm khám gối: Để xác định chính xác có tổn thương gân bánh chè trên lâm sàng, bác sĩ yêu cầu người bệnh duỗi gối chủ động, động tác này có thể gây đau.

Chẩn đoán hình ảnh

Để khẳng định thêm chẩn đoán, người bệnh cần được chụp phim Xquang thường hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) vùng gối.

– Trên phim Xquang thường, chụp tư thế nghiêng: xương bánh chè nằm ở vị trí cao hơn bình thường (Hình 5A). Trong đứt hoàn toàn gân bánh chè, chỉ cần chụp Xquang thường là đủ chẩn đoán.

– Chụp MRI: Phim MRI hiển thị hình ảnh rõ nét hơn về các tổn thương phần mềm. Với tổn thương gân bánh chè, chụp phim MRI có thể xác định được mức độ (đứt hoàn toàn hay không hoàn toàn), vị trí của đứt gân (Hình 7). Đôi khi, phim MRI còn giúp chẩn đoán phân biệt với các tổn thương khác có triệu chứng lâm sàng tương tự.

Điều trị đứt gân bánh chè (Xin đọc bài viết: “Điều trị đứt gân bánh chè”) Thạc sĩ Dương Đình Toàn