Top 5 # Mầm Bệnh Của Bệnh Dịch Hạch Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Dịch Tễ Học Bệnh Dịch Hạch

Dịch hạch là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm gây dịch do vi khuẩn yersinia pertis gây ra. Bệnh biểu hiện lâm sàng là tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc kết hợp với viêm hạch bạch huyết, trường hợp nặng gây viêm phổi và nhiễm khuẩn huyết.

Bệnh gây dịch chủ yếu ở động vật hoang dã đặc biệt là loài gặm nhấm, chủ yếu ở chuột, bọ chét đốt chuột sau đó truyền sang người.

Tình hình bệnh:

Bệnh dịch hạch đã được biết đến từ lâu trong lịch sử loài người và đã từng gây ra ít nhất 3 vụ đại dịch lớn trên toàn cầu với nhiều trường hợp mắc và tử vong.

Đại dịch lần thứ nhất xảy ra và thế kỉ VI làm gần 100 triệu trường hợp tử vong, nặng nhất ở châu Á, châu Âu và Địa Trung Hải.

Đại dịch lần thứ hai xảy ra vào thế kỉ XIV đã làm chết 25 triệu người châu Âu và 40 triệu người chấu Á và châu Phi. Mất gần 100 năm sau mới hồi phục được dân số. Vụ dịch này kéo dài 3 thế kỉ và hoành hoành ở nhiều nước như Ý, Pháp, Anh, Nga.

Đại dịch lần thứ ba bắt đầu từ Hồng Kông năm 1894 và kéo dài đến thế kỉ XX.

Tình hình bệnh dịch ở Việt Nam:

Quá trình xâm nhập bệnh dịch hạch vào Việt Nam

Bệnh dịch hạch được ghi nhận đầu tiên ở Nha Trang từ Hồng Kông nhập vào bằng hệ thống đường thuye, khoảng tháng 6 – 11 năm 1898.

1906 bệnh xuất hiện ở Sài Gòn do tàu từ Quảng Đông và Hồng Kông mang vào.

Năm 1907 bệnh dịch hạch bắt đầu lan đến các tỉnh thành theo đường giao thông.

1962 – 1966 dịch hạch lan rộng ra 30 tỉnh miền Nam. Theo thống kê của viện Pasteur từ năm 1964 đến năm 1974 các tỉnh miền Nam có 31.313 người mắc bệnh và 1432 người chết vì dịch hạch.

Từ 1975 đến 1980 bệnh vẫn lưu hành ở các tỉnh phía Nam nhưng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong giảm hơn so với trước.

ở miền Bắc: bệnh xuất hiện lẻ tẻ vào đầu thế kỉ XX.

1908 xảy ra dịch ở Hà Nội làm chết 80 người.

1909 dịch xảy ra ở Kỳ Lừa Đồng Đăng làm 109 người chết. Từ 1911 đến 1922 dịch lan ra ở nhiều tỉnh phía Bắc.

Từ 1923 đến 1977 không có trường hợp nào.

Sau giải phóng dịch lại xuất hiện ở miền Bắc.

Tháng 12/1977 dịch xảy ra ở nhà máy xay xát Hà Nội.

Tháng 4/1978 có 31 người mắc dịch.

Nguồn bệnh là loài gặm nhấm hoang dã, trong tự nhiên có khoảng 200 loài khác nhau như sóc, cầy, cáo… quan trong j nhất là các loài chuột (chuột cống, chuột đồng, chuột nhắt…). dịch hạch xảy ra gây tử vong hàng loạt cho loài chuột và thường gây dịch hạch ở người sau 7-18 ngày.

Là người đang mắc bệnh hoặc vừa khỏi bệnh dịch hạch.

Loài gặm nhấm hoang dại là vật chủ chính gây nên ở dịch thiên nhiên, chúng truyền bệnh cho nhau làm duy trì ỏ dịch thiên nhiên rồi từ đó truyền cho chuột đồng sang chuột nhà và gây bệnh cho người.

coppy ghi nguồn: http://drugsofcanada.com

link bài viết: dịch tễ học bệnh dịch hạch

Biểu Hiện Của Bệnh Dịch Hạch Ở Người

Bệnh dịch hạch là một căn bệnh do một loại vi khuẩn Yersinia pestis gây ra. Đây là oại vi khuẩn được truyền từ chuột sang người qua trung gian là bọ chét. Bọ chét và vật ký sinh trên cơ thể chuột, sẽ hút máu chuột rồi nhiễm bệnh, từ đó chúng nhảy sang ký sinh trên cơ thể con người và gây bệnh dịch hạch.

Người mắc bệnh dịch hạch có những biểu hiện chung đặc trưng là sốt, ớn lạnh, hạch mạch bị huyết sưng, nóng, đỏ đau. Dịch hạch ở thể phổi sẽ có biểu hiện là viêm phổi nặng và có khả năng lây nhiễm là khá cao.

Hiện tại bệnh dịch hạch đang được kiểm soát khá tốt, nhiều năm trở lại đây đã có rất ít các trường hợp người bệnh mắc dịch hạch.

Biểu hiện của bệnh dịch hạch ở các thể

Bệnh dịch hạch ở người có các thể bệnh bao gồm: thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi và thể màng não, thể bệnh thường gặp hơn cả là thể hạch (chiếm 94-98% tại Việt Nam).

Đường lây của bệnh

– Bọ chét sẽ hút máu động vật mang bệnh (như chuột, thỏ, nhím…) rồi cắn người.

– Người bị truyền trực tiếp vi khuẩn từ động vật nhiễm bệnh (bọ chét) qua da bị trầy xước hoặc bị động vật mang bệnh cào, cắn.

– Người bệnh hít trực tiếp vi khuẩn từ không khí.

Biểu hiện bệnh dịch hạch thể hạch

– Rét run, sốt cao trên 38 độ C.

– Nổi hạch ở bẹn, nách và cổ.

Bệnh dịch hạch thể phổi

Đây là thể đáng sợ nhất, tiến triển nhanh và nguy cơ lây lan cao. Bệnh nhân sẽ có các biểu hiện:

– Sốt cao, rét run, đau đầu, bị hoa mắt, chóng mặt, bứt rứt.

– Bệnh nhân sẽ thấy đau tức ngực, khó thở, thở nhanh nông sau khoảng 24 giờ sau.

– Ho có đờm nhầy và loãng, sau đặc dần, ho ra máu hoặc có nước bọt.

Bệnh dịch hạch thể nhiễm trùng huyết

Số bệnh nhân mắc thể bệnh này cao, chỉ đứng sau thể hạch với các biểu hiện sau:

– Sốt cao 40-41 độ C, rét run, đầu đau dữ dội, bị tiêu chảy và nôn mửa nhiều lần.

– Bệnh nhân hốt hoảng, vật vã, dễ bị kích động, nói sảng, thở nhanh nông…

Bệnh dịch hạch thể màng não

Các trường hợp ở thể này mắc thể này ít gặp, thường xuất hiện kèm sau thể hạch, thể nhiễm trùng huyết.

Tại Việt Nam, trên 10 năm trở lại đây thì không ghi nhận ca bệnh dịch hạch trên người, cũng không thấy có dịch lưu hành trên chuột và bọ chét. Tuy nhiên để phòng bệnh dịch hạch, Cục Y tế dự phòng và Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần đảm bảo vệ sinh ăn uống, thực phẩm phải được che, đậy an toàn…, tránh tiếp xúc với chuột. Thường xuyên vệ sinh môi trường, cấu trúc nhà ở hợp lý, tránh chuột chui rúc và làm tổ.Thực hiện các biện pháp diệt chuột, bọ chét nhằm phá huỷ nơi sinh sản của chuột.

Khi thấy nhiều chuột chết bất thường thì cần phải khai báo ngay cho cơ quan y tế nơi gần nhất; khi đang xảy ra dịch ở chuột và ở người không diệt chuột và bọ chét. Khi có các biểu hiện nghi dịch hạch (sốt, nổi hạch…), người bệnh cần phải đến cơ sở y tế để được khám, tư vấn và điều trị kịp thời. Ở những địa phương có bệnh dịch hạch lưu hành hoặc những vùng có nguy cơ, cần phải thường xuyên theo dõi kết quả giám sát dịch tễ học dịch hạch để có thể chủ động phòng chống bệnh dịch.

Bệnh Dịch Hạch Thể Phổi

Tổng quan về bệnh dịch hạch thể phổi

Bệnh dịch hạch (dịch hạch) là một ổ bệnh tự nhiên ở loài gặm nhấm do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra. Trong những điều kiện nhất định, bệnh dịch hạch được truyền sang người qua bệnh dịch hạch và bọ chét, gây ra bệnh dịch ở người. Bệnh khởi phát nhanh, tình trạng bệnh nặng, lây lan mạnh và tỷ lệ tử vong cao. Viêm hạch cấp thường gặp nhất trên lâm sàng , sau đó là nhiễm trùng huyết , viêm phổi, viêm màng não và dịch hạch da.

Bệnh dịch hạch thể phổi gây ra như thế nào?

Bệnh dịch hạch là một bệnh ổ tự nhiên ở loài gặm nhấm do vi khuẩn Yersinia pestis gây ra, lây nhiễm sang người thông qua sâu bọ và bọ chét trong những điều kiện nhất định, gây ra bệnh dịch hạch ở người. Bệnh có tốc độ khởi phát nhanh, tình trạng bệnh nặng, khả năng lây lan mạnh, tỷ lệ tử vong cao.

Các triệu chứng của bệnh dịch hạch thể phổi là gì?

Các triệu chứng thường gặp: sốt cao, ớn lạnh, ho ra máu, khó thở, sưng hạch bạch huyết, đau ngực, nôn mửa, tiêu chảy, gan to, suy hô hấp, lách to, khạc ra đờm, buồn nôn và nôn.

Thời gian ủ bệnh ngắn, thường từ 3 đến 5 ngày. Đây là loại bệnh dịch nghiêm trọng nhất, với tỷ lệ tử vong rất cao. Bệnh dịch hạch thể phổi nguyên phát kéo dài từ vài giờ đến 3 ngày, và những người đã được chủng ngừa có thể kéo dài đến 9-12 ngày. Loại này khởi phát nhanh và diễn biến nhanh, ngoài triệu chứng ngộ độc nặng , sốt cao kèm theo rét run , ớn lạnh , nổi hạch , nôn mửa , tiêu chảy, gan lách to, đi ngoài ra máu.

Bệnh dịch hạch thể phổi phần lớn là do sự lây lan của bệnh dịch hạch, và một số ít là bệnh dịch hạch thể phổi nguyên phát.

Các triệu chứng chính là:

1. Khạc đờm là khạc ra máu mủ, khạc ra máu có bọt hoặc đờm màu đỏ tươi, đau tức ngực, ho ra máu .

2. Khó thở , khó thở nhanh và tím tái, ít dấu hiệu phổi, ít ran ẩm và tiếng cọ màng phổi. Chụp X-quang phổi cho thấy viêm phế quản, rất không phù hợp với mức độ nghiêm trọng của bệnh. 3. Hạch to, kèm theo nôn mửa, tiêu chảy, gan lách to và chảy máu. Các dấu hiệu, mức độ bệnh không phù hợp với đặc điểm của bệnh, nếu không cấp cứu kịp thời có thể bị rối loạn ý thức , phần lớn tử vong do sốc, suy hô hấp . Được hơn 2-3 ngày, anh ta chết vì trụy tim và ra máu. Sau khi chết bệnh da toàn thân tím đen nên gọi là bệnh “hắc lào”.

Các hạng mục kiểm tra đối với bệnh dịch hạch thể phổi là gì?

Các hạng mục kiểm tra: số lượng bạch cầu (WBC), xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzym, cấy vi khuẩn trong đờm, cấy vi khuẩn trong máu và tủy xương, xét nghiệm ngưng kết

1. Số lượng bạch cầu và bạch cầu trung tính trong máu ngoại vi tăng lên đáng kể, thậm chí có biểu hiện giống bệnh bạch cầu . Thiếu máu nhẹ đến trung bình với giảm tiểu cầu.

2. Kiểm tra vi khuẩn Kiểm tra vi khuẩn là cơ sở để chẩn đoán bệnh này, chọc dò hạch bạch huyết, đờm, máu hoặc dịch não tủy có thể được lấy, ép hoặc in bằng kính hiển vi nhuộm, nuôi cấy và cấy động vật cũng có thể được thực hiện.

3. Xét nghiệm ngưng kết huyết thanh học bệnh dịch hạch đối với bệnh thường được sử dụng phương pháp chẩn đoán để phát hiện kháng thể ngưng kết huyết thanh đảo ngược hiệu giá kháng thể dưỡng bệnh và cấp tính tăng hơn 4 lần, hoặc giá trị chẩn đoán hiệu lực ≥1: 100.

Chụp X-quang phổi cho thấy viêm phế quản phổi hoặc các bóng hợp nhất hội tụ.

Dịch hạch thể phổi phải được phân biệt với các bệnh viêm phổi khác, chẳng hạn như viêm phổi thùy , bệnh than ở phổi , loại xuất huyết phổi do leptospirosis và viêm phổi do mycoplasma .

Bệnh dịch hạch thể phổi có thể gây ra những bệnh gì?

Biến chứng nhiễm trùng huyết và sốc nhiễm trùng , trường hợp nặng gây suy hô hấp

Làm thế nào để ngăn ngừa bệnh dịch hạch thể phổi?

1. Tất cả các bệnh nhân nghi ngờ phải thông báo dịch Bệnh dịch hạch thể phổi phải được cách ly nghiêm ngặt với đường hô hấp cho đến khi âm tính vi khuẩn đờm để kiểm soát bệnh dịch hạch chuột. Không được phép đến thăm và giao tiếp với bệnh nhân. Phân của bệnh nhân cần được khử trùng kỹ lưỡng, người bệnh qua đời nên hỏa táng hoặc chôn sâu. Những người tiếp xúc phải được cách ly trong 9 ngày Đối với những người đã được tiêm phòng , thời gian cách ly nên kéo dài đến 12 ngày.

2. Loại bỏ nguồn lây bệnh từ động vật: theo dõi các ổ tự nhiên để kiểm soát bệnh dịch hạch ở chuột. Thực hiện rộng rãi chiến dịch vệ sinh yêu nước chống chuột bọ. Marmots là một nguồn lây nhiễm quan trọng ở một số khu vực và nên bị săn lùng ráo riết.

3. Cắt đứt đường lây truyền: Diệt trừ bọ chét để cắt đứt đường lây truyền, phun thuốc cho chó mèo, vật nuôi.

4. Nhân viên y tế khi vào vùng dịch, người dân trong vùng dịch và nhân viên phòng xét nghiệm bệnh dịch phải được tiêm phòng trước 2 tuần, vắc xin có giá trị trong vòng 1 năm, những người tiếp xúc với người bệnh đều có thể phòng được bằng thuốc. Streptomycin được tiêm bắp 1g mỗi ngày, hoặc sulfadiazine 4g / ngày, uống 4 lần. Vắc xin thường dùng là vắc xin sống khô chủng EV không độc, được cấy theo phương pháp cào da, tức là nhỏ 2 giọt dung dịch vi khuẩn, cách nhau 3-4cm. Có thể nhận được chủng ngừa sau 2 tuần.

Các phương pháp điều trị bệnh dịch hạch thể phổi là gì?

Bệnh có tốc độ khởi phát nhanh, tình trạng nặng, diễn tiến nhanh và có khả năng lây nhiễm cao. Cần phát hiện sớm, chẩn đoán sớm, cách ly sớm và điều trị sớm.

1. Khử trùng và cách ly nghiêm ngặt, diệt trừ các loài gặm nhấm và bọ chét trong phường. Sát trùng kỹ phân bệnh nhân. Nhân viên y tế có các biện pháp tự bảo vệ nghiêm ngặt.

2. Áp dụng sớm các loại kháng sinh hiệu quả để điều trị mầm bệnh là chìa khóa của việc điều trị. Các loại thuốc truyền thống được sử dụng bao gồm streptomycin, tetracycline và chloramphenicol. Streptomycin là thuốc được lựa chọn, liều dùng cho người lớn là 30mg / kg mỗi ngày, chia làm 2 lần tiêm bắp hoặc lần đầu tiêm bắp 1g, sau đó đổi thành 0,5g, 1 lần / 6h. Đối với trường hợp nặng, lần đầu uống 1g, sau đó 0,5g, 1 lần / 4 giờ, và 1 lần / 6 giờ sau khi tình trạng bệnh được cải thiện, liệu trình điều trị khoảng 10 ngày. Cloramphenicol liều 60mg / kg / ngày, uống hoặc tiêm tĩnh mạch chia làm 4 lần, liệu trình như trên. Hiện tại, thuốc kháng sinh hiệu quả nhất là ceftriaxone và ciprofloxacin, và một loại thuốc duy nhất cũng có hiệu quả.

3. Hỗ trợ triệu chứng nghỉ ngơi tuyệt đối tại giường trong giai đoạn cấp, bù dịch đầy đủ để thải độc tố dễ dàng. Bù nước, truyền máu hoặc huyết tương. Các trường hợp nghiêm trọng giống như nhiễm trùng huyết có thể được điều trị bằng glucocorticoid ngắn hạn. Những người khó thở và suy tuần hoàn cần được cho thở oxy để khắc phục tình trạng sốc. Phì đại hạch nên dùng cồn Ichthyol 5% bôi ngoài da, có thể rạch và dẫn lưu hình thành áp xe . Chế độ ăn uống bệnh dịch hạch thể phổi

Trong giai đoạn đầu, khi nhiệt đã không xóa, hoặc khi nhiệt đã không xóa nhân, các bệnh dịch hạch bệnh nhân không nên ăn cháo và cơm, khí gạo, và phần còn lại của cái lạnh và thực phẩm trì trệ nóng. “Nếu chưa trừ được nhiệt thì vẫn nên bỏ. Thịt gà, chim bồ câu, thịt bò, cừu, tôm, cua, hành, tỏi, rượu nếp cẩm, tất cả những thứ như lạnh, nhiệt ứ, độc đều không được ăn.” Chiên đồ nóng lớn, không được uống canh đông. “” Nếu chưa hết nhiệt thì không nên ăn cháo, cơm, nếu phạm phải sẽ chuyển bệnh, khi hết sốt thì một hai ngày là khỏi, có thể thêm cháo loãng, cho gạo vào dần dần. Bạn không cần phải đắp, nhưng chỉ cần dùng một chút là sẽ khỏi bệnh. Hãy thận trọng. “

Ở giai đoạn sau của các triệu chứng được cải thiện, trong thời gian hồi phục, bạn có thể có chế độ ăn lỏng hợp lý và cung cấp đủ dịch, hoặc truyền tĩnh mạch glucose và nước muối thông thường để tạo điều kiện đào thải chất độc.

Bài Giảng Bệnh Dịch Hạch (Plague)

Dịch hạch (DH) là bệnh truyền nhiễm cấp tính do trực khuẩn Yersinia pestis gây ra, lây truyền chủ yếu bằng đường máu (do bọ chét đốt). Bệnh cảnh lâm sàng là tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc toàn thân nặng. Tổn thương hạch đặc hiệu, phổi và một số cơ quan khác.

Bệnh dịch hạch được xếp vào bệnh “tối nguy hiểm” và có ổ bệnh thiên nhiên.

Lịch sử nghiên cứu bệnh

6/1894 Alexandre Yersin và Shibasaburo Kitasato độc lập thông báo đã phân lâp được tác nhân gây bệnh dịch hạch.

1897 Masanori Ogata và Paul Louis Simond đã phát hiện ra vai trò trung gian truyền bệnh của bọ chét.

1897 Waldemar Haffkin đã phát hiện và chứng minh hiệu quả của Vaccine

Lịch sử loài người đã trải qua 3 vụ đại dịch vào thế kỷ VI, XIV, XIX với hàng trăm triêu người chết. Cho đến nay vẫn còn 1 số vụ dịch nhỏ ở nhiều nước, đặc biệt là Châu Phi, Châu á.

Ở Việt nam: 1898 bệnh DH xâm nhập đầu tiên ở Nha trang, sau đó xuất hiện ở các tỉnh Miền nam Sài gòn, Sóc trăng, Phan thiết, Huế, Đà nẵng, Tây ninh…

1908 DH bắt đầu ở Hà nội, Lạng sơn, Hải phòng, Hòn gai…

Cho đến nay, tuy bệnh đã được khống chế, song vẫn còn dai dẳng ở 1 vài nơi như: Tây nguyên, Nam trung bộ…

Là trực khuẩn Yersinia pestis (trước đây gọi là Pasteurella pestis, Bacterium pestis), là trực khuẩn ngắn, hình cầu-trực khuẩn (tù 2 đầu và có hình ôvan), kích thích 1,5-2 0,5-0,7 micromet. Bắt mầu Gram âm, không sinh nha bào, không di động. Mọc chậm ở các môi trường nuôi cấy (ưa khí và kỵ khí) nhiệt độ thích hợp 28-37 C, pH 7,2-7,4. Không lên men đường lactoza, sacaroza, ure (-), Indol (-). Sức đề kháng kém, dễ bị ánh sáng mặt trời làm chết trong vài giờ. ở nhiệt độ 55 C chết trong 30 phút, 100 C/1phút. Các thuốc khử trùng thông thường: phenol 1%, cloranin 3%, lyzyl 1% diệt vi khuẩn trong vài phút.

Kháng nguyên của trực khuẩn dịch hạch rất phức tạp: có 16-28 kháng nguyên, đa số chưa được nghiên cứu đầy đủ. Biết rõ hơn là 3 loại kháng nguyên:

Kháng nguyên vỏ (F1) mang tính độc lực. Bảo vệ vi khuẩn sinh trưởng chống lại thực bào.

Kháng nguyên thân: Là một phần của nội độc tố.

Yersinia pestis tạo ra cả nội độc tố và ngoại độc tố. Các độc tố dịch hạch có tác động làm tan hồng cầu, tan tơ huyết làm đông huyết tương, yếu tố giúp vi khuẩn xâm nhập và có yếu tố diệt bạch cầu.

Là bệnh từ động vật lây sang người, có ổ bệnh thiên nhiên.

Nguồn bệnh là loài gậm nhấm hoang dã (khoảng 7200 loài). Chủ yếu là các loài chuột (chuột cống, chuột đồng, chuột nhắt v.v..).

Người đang mắc dịch hạch hoặc vừa khỏi có thể là nguồn bệnh (đặc biệt dịch hạch thể phổi).

Có 4 đường lây – trong đó chủ yếu lây qua đường máu.

Đường máu: Lây qua vết đốt của côn trùng. Chủ yếu là do bọ chét Xenopsylla cheopis. Thứ yếu là: chấy, rận, rệp. Bọ chét hút máu làm lan truyền bệnh trong các giống chuột và từ chuột sang người.

Đường tiêu hoá: Thực phẩm, nước bị ô nhiễm do chuột trực tiếp gieo rắc mầm bệnh vào. Đường lây này trên thực tế ít nguy hiểm vì trực khuẩn dịch hạch dễ bị chết khi đun sôi, nấu chín.

Đường hô hấp: Từ bệnh nhân dịch hạch thể phổi có thể lây trực tiếp cho người xung quanh qua các giọt đờm, nước bọt bắn ra khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyện.

Đường da, niêm mạc: Qua tiếp xúc trực tiếp với vùng da tổn thương (hiếm gặp).

Cơ thể cảm thụ và miễn dịch

Sức cảm thụ với bệnh cao. Do đó thường mắc ngay từ tuổi nhỏ, nhiều nhất khoảng 5-16 tuổi.

Miễn dịch: Sau mắc bệnh có đáp ứng miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể. Miễn dịch bảo vệ thường lâu bền.

Cơ chế bệnh sinh và giải phẫu bệnh lý

Cơ chế bệnh sinh

Trực khuẩn dịch hạch xâm nhập vào cơ thể qua da (chủ yếu do vết đốt của bọ chét) và niêm mạc (niêm mạc hầu họng, ống tiêu hoá, đường hô hấp). Theo đường bạch huyết đến khu vực, sinh sản và phát triển mạnh. Vượt qua được hạch khu vực, vi khuẩn lại theo đường bạch huyết đến các hạch toàn thân và vào máu, vi khuẩn chỉ tồn tại ở máu 1 thời gian ngắn do tác dụng của đại thực bào của gan, lách và các tổ chức. Quá trình bệnh lý dừng ở đây và gây ra dịch hạch thể hạch tiên phát. Ngược lại, nếu đại thực bào gan, lách không ngăn cản được thì trực khuẩn dịch hạch sinh sản và phát triển và gây thể nhiễm khuẩn huyết tiên phát. Từ máu, vi khuẩn đi đến các cơ quan như hạch, phổi, ruột, màng não v.v.. gây nên các thể hạch, thể phổi, thể tiêu hoá, thể màng não thứ phát. Từ các ổ nhiễm trùng thứ phát này, vi khuẩn lại có thể xâm nhập vào máu làm bệnh nặng thêm.

Từ các thể tiên phát (thể da, thể hạch, thể phổi) vi khẩn phát triển, khi sức đề kháng chống đỡ của cơ thể giảm vi khuẩn lan tràn vào máu và gây dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát.

Giải phẫu bệnh

Hạch: Sưng to, viêm tấy, mưng mủ, hoại tử. Cấu trúc bị phá vỡ, xen vào cácnang lympho có những ổ xuất huyết, ổ hoại tử chứa nhiều vi khuẩn. Tổ chức quanh hạch viêm, phù nề.

Phổi: Niêm mạc khí quản, phế quản xung huyết, chứa dịch mầu hồng. Phổi xung huyết phù nề, viêm phổi đốm hoặc viêm phổi thuỳ.

Các cơ quan khác: Gan, lách, thận, tim v.v.. xung huyết, xuất huyết, hoại tử ổ nhỏ, tuỳ theo mức độ tổn thương.

Phân chia thể lâm sàng theo cơ quan tổn thương

Dịch hạch thể hạch tiên phát và thứ phát.

Dịch hạch thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát và thứ phát.

Dịch hạch thể phổi tiên phát và thứ phát.

Dịch hạch thể tiêu hoá tiên phát và thứ phát.

Dịch hạch thể màng não tiên phát và thứ phát.

Dịch hạch thể da tiên phát và thứ phát.

Triệu chứng học theo từng thể lâm sàng

Thể thông thường điển hình (thể hạch tiên phát)

Là thể phổ biến nhất.

Nung bệnh

Trung bình 2-5 ngày, ngắn nhất vài giờ, dài nhất 8-10 ngày. Không có biểu hiện lâm sàng.

Thời kỳ khởi phát

Bệnh khởi phát đột ngột ở người đang khoẻ mạnh tự nhiên cảm thấy mệt mỏi, khó chịu, nhức đầu, chóng mặt, đau khắp người, buồn nôn, sốt cao, thường có gai rét, hoặc rét run. Có bệnh nhân đau nhiều ở vùng sắp sưng hạch.

Sau vài giờ hoặc 1-2 ngày bệnh chuyển sang giai đoạn toàn phát.

Vị trí hạch viêm phổ biến nhất là vùng đùi bẹn, vùng tam giác Scarpa (60-80%) rồi đến nách (14-20%), ở cổ, dưới hàm, dọc cơ ức đòn chũm (15-18%).

Đặc điểm: Hạch sung to, rất đau cả khi đi lại lẫn khi nằm nghỉ làm cho bệnh nhân luôn ở tư thế chống đỡ lại (co chân, co tay, nghẹo cổ v.v..).

Hạch lúc đầu chắc, nóng, to nhanh. Có thể cả 1 cụm hạch sưng tạo nên một khối lớn 5-8 cm. Da phủ trên hạch bị căng và xung huyết, tổ chức dưới da quanh hạch bị viêm phù nề do đó không sờ rõ bờ hạch. Khối hạch sưng to trong 6-9 ngày và tiến triển theo 3 hướng:

Hạch viêm sẽ hoá mủ, tự vỡ, chảy dịch mủ và máu, chất hoại tử. Lỗ dò lâu liền, thành sẹo co rúm.

Hạch trở thành xơ hoá thành 1 cục rắn chắc.

Nếu được điều trị sớm, đúng phác đồ hạch sẽ thu nhỏ lại.

Nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi, buồn nôn. Nặng hơn: Li bì hốt hoảng, mê sảng. Nước tiểu ít, sẫm mầu. Phân có thể lỏng…

Da niêm mạc xung huyết, mặt đỏ, mắt đỏ. Môi khô, lưỡi bẩn, trắng – nặng: có xuất huyết dưới da, niêm mạc.

Thể nhiễm khuẩn huyết

Thể nhiễm khuẩn huyết tiên phát

Bệnh khởi phát đột ngột, rất cấp tính ngay trong lúc hạch ngoại vi chưa sưng: Tình trạng nhiễm trùng nhiễm độc rất nặng: sốt cao 40-41 C, nhiều cơn rét run. Bệnh nhân kích động, cuồng sảng hoặc li bì. Nôn nhiều, ỉa lỏng, bụng chướng, có rối loạn về tim mạch và hô hấp. Xuất huyết da, niêm mạc, phủ tạng – còn gọi là “Dịch hạch đen”.

XN: BC tăng rất cao 20-40.000, chiếm 80-90%, tuy vậy có trường hợp bạch cầu giảm nhiều < 1000/mm3. Dự trữ kiềm giảm có hiện tượng đông máu nội mạch rải rác.

Tử vong cao, chết nhanh trong 1-2 ngày đầu là “Dịch hạch tối cấp”.

Thể nhiễm khuẩn huyết thứ phát

Thường xuất hiện sau thể hạch, thể phổi tiên phát không được điều trị, khi bệnh nhân đã giảm sức đề kháng. Bệnh thường nặng, diễn biến cấp tính nhưng thường ít rầm rộ hơn so với thể tiên phát.

Thể phổi tiên phát

Nung bệnh rất ngắn, chỉ vài giờ. Khởi phát, rất đột ngột, sốt cao 40-41 C kèm rét run. Mạch nhanh, huyết áp giảm. Bệnh nhân thấy mệt mỏi, nhức đầu, khó chịu ngày càng tăng. Chưa có triệu chứng về hô hấp. Chỉ sau vài giờ đến 1 ngày vào giai đoạn toàn phát với các triệu chứng toàn thân nhiễm khuẩn nhiễm độc nặng lên. Các triệu chứng về hô hấp rõ: Tức ngực, khó thở, thở nhanh nông, ho có đờm lúc đầu trong về sau ho nhiều ra máu mầu hồng soi có nhiều vi khuẩn. Triệu chứng thực thể ngược lại nghèo nàn, ít khi nghe được ran bệnh lý. X quang: hình ảnh viêm phổi hoặc nhiều bóng mờ rải rác. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh tiến triển nhanh chóng thành phù phổi cấp, khó thở tăng, rối loạn tim mạch nặng nề. Tử vong nhanh trong 1-2 ngày.

Thể phổi thứ phát

Thường gặp hơn thể phổi tiên phát. Xuất hiện sau các thể khác (thể hạch, thể nhiễm khuẩn huyết) không được phát hiện và điều trị kịp thời. Tiên lượng thường nặng.

Tại vùng vi khuẩn xâm nhập, phát triển thành nốt dát, sau thành mụn nước rồi mụn mủ lẫn máu (đôi khi mầu đen), ấn vào rất đau. Xung quanh mụn mủ là tổ chức da xung huyết, thâm nhiễm nổi gờ cao lên khỏi nền da lành. Sau đó mụn vỡ tạo thành vết loét, đáy vết loét là nền thâm nhiễm mầu vàng, mặt vết loét phủ vẩy đen (giống bệnh than). Vết loét lâu liền và lâu thành sẹo.

Thể viêm màng não.

Thể tiêu hoá.

Thể niêm mạc.

Hội chứng nhiễm khuẩn – nhiễm độc toàn thân nặng.

Triệu chứng tuỳ theo từng thể.

Căn cứ xét nghiệm

Công thức máu: Bạch cầu tăng cao, tăng đa nhân trung tính trên 80%; hồng cầu và tiểu cầu giảm trong các thể nặng.

Phân lập Yersinia pestis tuỳ theo thể: Từ mụn ở da, hạch, máu, đờm, dịch não tuỷ v.v..

Nuôi cấy ở môi trường thạch có thêm chất kích thích sinh trưởng.

Tiêm truyền cho động vật thí nghiệm: các loài chuột:

Có thể soi trực tiếp

Chẩn đoán huyết thanh: Phản ứng kết hợp bổ thể, phản ứng ngưng kết, ngăn ngưng kết hồng cầu. Làm 2 lần cách nhau 10 ngày. Hiệu giá kháng thể lần 2 tăng gấp 4 lần lần 1 là dương tính.

Phương pháp phát hiện kháng nguyên F1 trong các bệnh phẩm.

Phương pháp chẩn đoán nhanh bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang có thể phát hiện trực khuẩn dịch hạch ở bệnh phẩm sau 1-2 giờ.

Căn cứ dich tễ: Bệnh nhân ở vùng có dịch.

Chẩn đoán phân biệt

Viêm hạch cấp thông thường: Có biểu hiện ổ nhiễm trùng ở vùng kế cận, viêm hạch kèm viêm bạch mạch. Hội chứng nhiễm khuẩn-nhiễm độc thường không nặng nề.

Viêm phổi: Triệu chứng cơ năng không rầm rộ như dịch hạch thể phổi nhưng triệu chứng thực thể vàX quang thì điển hình.

Các thể dịch hạch tiên phát (thể phổi, thể nhiễm khuẩn huyết) khó chẩn đoán phân biệt với nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi do vi khuẩn khác. Chẩn đoán chủ yếu dựa vào dịch tễ vùng đang có dịch và xét nghiệm vi khuẩn, chẩn đoánhuyết thanh.

Nguyên tắc điều trị

Tất cả bệnh nhân phải được vào viện điều trị, cách ly tại chỗ theo chế độ bệnh “tối nguy hiểm” (quarantine).

Điều trị diệt mầm bệnh.

Điều trị theo cơ chế bệnh sinh.

Điều trị đặc hiệu bằng kháng sinh

Streptomyxin là kháng sinh điều trị có hiệu quả. Liều: 3g/ngày tiêm 0,5g/lầncách 4giờ (tổng liều 3g/ngày) 2 ngày. Sau đó 0,5g cách 6h (tổng liều 2g/ngày) 7-10 ngày (thể hạch thông thường).

Nếu vi khuẩn kháng với streptomyxin thì thay bằng kanamyxin 1g/ngày.

Các kháng sinh khác có thể dùng thay thế khi bệnh nhân dị ứng với streptomyxin:

Tetraxyclin: Liều 50mg/kg/ngày x 2-3 g/ngày, khi nhiệt độ giảm thì giảm liều còn 2g/ngày 7-10 ngày.

Kháng sinh mới hiện nay có tác dụng tốt với dịch hạch. Nhóm Cephalosporin thế hệ III: Ceftriaxon tiêm bắp thịt hoặc tĩnh mạch 2-3 g/24h. hoặc nhómQuinolon

Với dịch hạch nặng (thể nhiễm khuẩn huyết, thể phổi) nên dùng phối hợp kháng sinh: Streptomyxin 2g/ngày + tetraxyclin 2g/ngày hoặc streptomyxin 2g/ngày + tetraxyclin 2g/ngày + chloramphenicol 2g/ngày. Hiện nay thường dùng kháng sinh nhóm Cephalosporin thế hệ III + nhóm Quinolon

Điều trị triệu chứng

Truyền dịch, bù nước điện giải, chống toan huyết.

Trợ tim mạch.

Giảm đau, hạ sốt.

Hồi sức tích cực tuỳ theo triệu chứng của bệnh nhân: Chống choáng, suy hô hấp, suy tuần hoàn, xuất huyết v.v..

Nâng sức đề kháng: Sinh tố, dinh dưỡng, chế độ ăn.

Phòng bệnh chung

Diệt chuột, bọ chét (chú ý diệt bọ chét trước, diệt chuột sau).

Phòng bọ chét đốt.

Khi có bệnh nhân dịch hạch cần tuân theo chế độ bệnh tối nguy hiểm.

Với người tiếp xúc cho điều trị dự phòng khẩn cấp: Streptomyxin 1g/ngày 5 ngày hoặc tetraxyclin 1g/ngày 5 ngày. Phải theo dõi chặt chẽ, khi có triệu chứng bệnh thì điều trị như đối với bệnh nhân.

Khi có bệnh nhân tử vong: Cần liệm xác chết bằng vải tẩm cloramin 5%, trong quan tài có rắc vôi bột, phải chôn sâu 2 m hoặc hoả táng.

Phòng bệnh đặc hiệu

Tiêm chủng: Vacxin EV (vacxin sống) chủng hoặc tiêm trong da. Hiệu lực bảo vệ không cao. Chỉ định cho người ở trong ổ dịch nhưng chưa có miễn dịch hoặc người phải đi công tác vào vùng có dịch.