Top 11 # Lịch Sử Bệnh Nhân 1440 Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

An Giang Xác Minh Lịch Trình Di Chuyển Của Bệnh Nhân 1440

Ngày 27/12, Phó chủ tịch UBND tỉnh An Giang Lê Văn Phước cho biết sau khi nhận được thông tin bệnh nhân 1440 thay đổi lời khai về lịch trình nhập cảnh trái phép vào Việt Nam, ông đã yêu cầu Ban Chỉ đạo phòng, chống Covid-19 của tỉnh liên hệ với cơ quan chức năng tại Vĩnh Long để nắm thông tin.

Hiện, Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 tỉnh Vĩnh Long đang cử lực lượng lấy lời khai của bệnh nhân 1440, khi có kết quả chính xác sẽ thông báo cho tỉnh An Giang.

Lãnh đạo UBND tỉnh An Giang cũng yêu cầu công an và bộ đội biên phòng chỉ đạo UBND các huyện, thị xã biên giới trong tỉnh tiến hành rà soát kỹ lại tình hình xuất nhập cảnh trên địa bàn, nhất là trong đêm 24/12 ở tất cả các đường mòn lối mở.

Lực lượng công an tỉnh An Giang đi đến nhà người dân để phối hợp công tác tuyên truyền phòng chống dịch bệnh. Ảnh: Tiến Tầm.

“Nếu sau khi xác minh lại thông tin mà đúng là bệnh nhân 1440 nhập cảnh trái phép vào Việt Nam qua khu vực cửa khẩu Long Bình, thì tỉnh An Giang sẽ tổ chức họp Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 gấp để triển khai các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định”, ông Phước khẳng định.

Tối 26/12, UBND tỉnh An Giang có công văn yêu cầu các địa phương và cơ quan chức năng tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Theo công văn, tình hình tình hình dịch bệnh tại địa phương này đang được kiểm soát tốt.

Tuy nhiên, thời gian tới cả nước chuẩn bị đón Tết Dương lịch và Tết Nguyên đán Tân Sửu, việc đi lại của người dân các tỉnh giáp biên giới tăng lên. Để tăng cường công tác phòng chống dịch, Chủ tịch UBND tỉnh An Giang yêu cầu thủ trưởng các cơ quan, ban ngành và Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, TP tiếp khuyến cáo khuyến cáo cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động và người dân không được lơ là, chủ quan. Mọi người phải thực hiện nghiêm giải pháp 5K (Khẩu trang – Khử khuẩn – Khoảng cách – Không tập trung – Khai báo y tế) theo khuyến cáo của Bộ Y tế.

Chủ tịch UBND tỉnh An Giang yêu cầu Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng, Bộ Chỉ huy Quân sự, Công an tỉnh và Chủ tịch UBND các huyện, thị xã, thành phố, đặc biệt là 5 huyện biên giới nâng lên một mức trong tất cả các biện pháp phòng, chống dịch đã triển khai trong thời gian qua. Tăng cường công tác kiểm tra đường bộ, quản lý chặt chẽ biên giới, tổ chức chốt chặn 24/24, nhất là các đường mòn, lối mở; quản lý chặt chẽ các hoạt động nhập cảnh, ngăn chặn triệt để các trường hợp nhập cảnh trái phép.

Các lực lượng chức năng ở An Giang tuyên truyền về phòng chống dịch bệnh cho người dân các huyện, thị vùng biên giới. Ảnh: Tiến Tầm.

Các lực lượng biên phòng, công an khu vực cửa khẩu, chính quyền cơ sở và nhân dân vùng biên giới phát huy vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện các quy định phòng, chống dịch bệnh. Người dân chủ động thông báo với cơ quan chính quyền để kiên quyết xử lý các đối tượng, tổ chức đưa người nhập cảnh trái phép.

Sở Công Thương An Giang được UBND tỉnh giao chỉ đạo các chợ, trung tâm thương mại, siêu thị, nhà máy, xí nghiệp thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng, chống dịch bệnh. Sở Giao thông Vận tải chỉ đạo các đơn vị kinh doanh phương tiện giao thông công cộng phải đảm bảo công tác phòng chống dịch, có kiểm soát chặt chẽ thông tin cơ bản của hành khách để thuận lợi cho công tác quản lý, truy vết khi phát hiện có ca mắc.

Sở Y tế An Giang theo dõi sát tình hình diễn biến dịch bệnh mỗi ngày trên thế giới và trong nước để kịp thời tham mưu UBND tỉnh giải pháp phòng, chống dịch hiệu quả; chuẩn bị sẵn sàng các phương án, kể cả tình huống xấu.

Theo thông tin dịch tễ, rạng sáng ngày 24/12, bệnh nhân được đưa lên xe tải từ Campuchia đi về phía cửa khẩu tại tỉnh Tây Ninh.

Khoảng 5h cùng ngày, bệnh nhân đến cửa khẩu sau đó lên xe tải chở hàng về đến chúng tôi và về Vĩnh Long bằng xe 16 chỗ. Trên xe lúc đó có 4 người nhưng không ngồi cùng hàng ghế.

Quá trình di chuyển, bệnh nhân có ghé trạm dừng chân Minh Phát ở huyện Cái Bè (tỉnh Tiền Giang). Đến 8h ngày 24/12, bệnh nhân dừng chân tại khu vực cổng chào tỉnh Vĩnh Long ở phường Tân Ngãi (TP Vĩnh Long), sau đó được xe ôm chở về thị trấn Cái Nhum (huyện Mang Thít).

Bệnh nhân có ghé về nhà mẹ để lấy chìa khóa và xe cá nhân. Trên đường về nhà riêng, người này ghé mua thuốc lá tại tiệm tạp hóa. Sau đó gia đình đã báo cơ quan chức năng.

Bệnh nhân được giám sát và đưa đi cách ly tập trung vào tối 24/12.

Đến chiều 26/12, bệnh nhân khai với cơ quan chức năng là không đi vào tỉnh Tây Ninh như lời khai ban đầu mà là tỉnh An Giang. Lãnh đạo UBND tỉnh Vĩnh Long cho rằng anh T. còn hoảng loạn, lời khai chưa chính xác.

Việt Tường – Tiến Tầm

Những Mốc Lịch Sử Đáng Ghi Nhớ Trong Lĩnh Vực Sốt Rét

1.Ký sinh trùng sốt rét 1880 Charles Louis Alphonse Laveran, bác sỹ ngoại khoa quân đội Pháp, lần đầu tiên tìm thấy ký sinh trùng có trong máu bệnh nhân bị sốt rét. 1885 Ettore Marchiafava, Angelo Celli và Camil

·1912 ký sinh trùng sốt rét ở người lần đầu tiên được nuôi cây trong phòng thí nghiêm, nhưng mãi đến năm 1976 mới thành công được toàn bộ các giai đoạn của Ký sinh trùng.

·1890 Giovanni Batista Grassi và Raimondo Feletti (Ý) khám phá có 2 loài KST sốt rét ở người, đó là: Plasmodium vivax và P. malariae. Trong khi đó Laveran tin tưởng chỉ có một loài KST, đó là: Oscillaria malariae. William H. Welch (Mỹ) 1897 đặt tên cho KST gây sốt ác tính là P. falciparum. Đến năm 1922, John William Watson Stephens mô tả loại KST thứ tư gây sốt rét cho người đó là P. ovale.

2.Vector truyền bệnh và biện pháp phòng chống

·1897 Sir Ronald Ross – người Anh – chứng minh sốt rét được truyền bởi muỗi.

·1939, Paul Hermann Müller tái tổng hợp và phát hiện tính diệt côn trùng của DDT (dichlorodiphenyl trichloroethylene) [DDT lần đầu được tổng hợp bởi Othmar Zeidler (Áo) năm 1874].

3.Điều trị sốt rét

·1638 Quinine được dùng điều trị bệnh sốt rét cho nữ bá tước Peru, năm 1742 được Linnaeus đặt tên cho vỏ cây này là Cinchona, năm 1820 hai nhà hóa học Pháp Pierre Joseph Pelletier và Joseph Bienaimé Caventou chiết xuất Quinine từ vỏ cây Cinchona dùng để điều trị sốt cơn trên toàn thế giới.

·1934 Hans Andersag, nhà hóa học Đức chế xuất chất thay thế Quinine là Chloroquine (Resochin). 1957, kháng chloroquin đầu tiên được thông báo ở biên giới Thái-Camwpuchia, sau đó là Nam Mỹ, Việt nam, Đông nam Á

·1951 tổng hợp được Primaquine·1952 tổng hợp được Pyrimethamine·1974 quân đội Mỹ tổng hợp nên Mefloquine. Kháng Mefloquine được thông báo đầu tiên năm 1985 tại châu Á.·1972 Artermisinin được các nhà khoa học Trung quốc chiết xuất từ cây Qinghao.

4.Chương trình phòng chống sốt rét

·1955 – 1972, DDT và chương trình tiêu diệt sốt rét (Malaria Eradication Programme)·1992 Hội nghị Amsterdam (Hà Lan) và Chương trình PCSR Toàn cầu (Global Malaria Control Programme)·1998 Roll Back Malaria (RBM) được thành lập bởi tổng thư ký WHO, UNICEF và WORLD BANK, hiện có hơn 100 thành viên tham gia, bao gồm các thành viên phát triển song phương, đa phương, lĩnh vực tư nhân, các tổ chức hiệp hội phi chính phủ, các viện hàn lâm và nghiên cứu.·11/1996 ACTMalaria (The Asian Collaborative Training Network for Malaria) được thành lập tai Chiangmai – Thailand bao gồm các chương trìnhquốc gia phòng chống sốt rét: Bangladesh, Cambodia, PR China, Republic of Indonesia, Lao PDR, Malaysia, Myanmar, Philippines, Thailand và Vietnam.·1/7/1957 thành lập Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương.·08/03/1977 thành lập Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn.·18/1/1977 Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng thành phố Hồ Chí Minh·Ngày 25 hàng năm là ngày kỷ niệm sốt rét thế giới, được WHO công nhận. Năm 2008 là năm kỷ niệm đầu tiên.

·Giáo sư Đặng Văn Ngữ: -Tốt nghiệp bác sĩ y khoa năm 1937 tại Trường Y – Dược thuộc Đại học Đông Dương.-Năm 1942, ông trở thành Trưởng phòng thí nghiệm ký sinh trùng và là giảng viên Sinh học Ban Dược…-Năm 1936, ông đã phát hiện ra loài sán Clonorchis sinensis có thể ký sinh ở tụy…-Ông đã công bố 4 công trình giá trị: “Xác định loại nấm có tính kháng sinh cao”(1947); “Xác định công thức kháng nguyên Salmonella” (1945); “Đặc điểm tiến hóa của D.mansoni” (1943) và hoàn chỉnh một số xét nghiệm miễn dịch để chuẩn đoán.-Năm 1957, ông sáng lập Viện sốt rét Ký sinh trùng và Côn trung.-Năm 1964, ông đã tìm ra muỗi An.sinensis

5.Giải Nobel về sốt rét

Có 4 giải Nobel về lĩnh vực sốt rét trên toàn thế giới·Ronald Ross, nhà phẫu thuật thuộc quân đội Anh, được nhận Nobel năm 1902. Ông khám phá ra muỗi là vector truyền bệnh sốt rét tại Secunderabad – Ấn độ.·Alphonse Laveran, nhà phẫu thuật thuộc quân đội Pháp khi đang phục vụ tai Algeria, được nhận Nobel năm 1907. Ông khám phá ra ký sinh trùng sốt rét có trong máu bệnh nhân sốt cơn.·Julius Wagner-Jauregg, bác sỹ người Áo, nhận Nobel năm 1927, Ông đã khám phá ra gây bệnh sốt rét thực nghiệmcó thể điều trị bệnh giang mai thần kinh.·Paul Hermann Müller, nhà hóa học Thụy sỹ, được nhận Nobel năm 1948, Ông đã khám phá ra độc tính đối với côn trùng của DDT, góp phần loại trừ sốt rét ở châu Âu.

‘Bệnh Nhân 1440’ Bị Khởi Tố

Lê Thúc Trí, 33 tuổi, nhập cảnh trái phép về nhà ở huyện Mang Thít bị khởi tố về hành vi Làm lây lan dịch bệnh.

Ngày 19/1, đại tá Huỳnh Thanh Mộng (Phó giám đốc Công an tỉnh Vĩnh Long) cho biết Trí bị điều tra theo Điều 240 BLHS. Bị can đang được cách ly điều trị, còn dương tính với nCoV nên việc tiếp xúc điều tra còn khó khăn.

Cùng ngày, Bác sĩ Văn Công Minh, Giám đốc Sở Y tế tỉnh Vĩnh Long, cho biết ” Bệnh nhân 1440 ” được tiếp tục được cách ly điều trị bệnh viện lao và bệnh phổi Vĩnh Long 25 ngày. Lần xét nghiệm thứ 11 của anh này (hôm 15/1) cho kết quả âm tính, sau 10 lần dương tính. Tuy nhiên, ở lần xét nghiệm thứ 12 mới đây kết quả dương tính trở lại.

Hiện sức khoẻ bệnh nhân ổn định, không có triệu chứng ho sốt, không có bất thường. “Cũng như những ca trước mà chúng tôi tiếp nhận, điều trị, ở giai đoạn gần hết bệnh hay xảy ra việc âm – dương tái đi tái lại. Tâm lý của bệnh nhân này đã ổn định. Hôm nay, chúng tôi tiếp tục lấy mẫu xét nghiệm cho anh ấy”, bác sĩ Minh nói và cho biết nếu sau 3 lần liên tiếp cho kết quả âm tính, bệnh nhân sẽ được công bố khỏi bênh, cho xuất viện và vào khu cách ly tập trung 14 ngày.

“Bệnh nhân 1440” cùng 5 người từ Myanmar vượt biên vào Thái Lan, qua Campuchia. Rạng sáng 24/12, nhóm này cùng 3 phụ nữ khác vượt biên vào khu vực cửa khẩu Long Bình, huyện An Phú, tỉnh An Giang.

Khi lên bờ, 6 người (từ Myanmar) thuê ôtô 7 chỗ lên TP HCM. Khi đến tỉnh Long An, “bệnh nhân 1440” cùng người phụ nữ 32 tuổi ở huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, xuống xe và đón ôtô về nhà.

Còn 3 người phụ nữ sau khi vượt biên vào huyện An Phú thuê taxi đến TP Châu Đốc. Một người bắt taxi khác về Cà Mau, hai người còn lại về TP HCM và Tây Ninh. Ba người lần lượt được tìm thấy và đưa đi cách ly, kết quả xét nghiệm lần đầu âm tính với nCoV.

Đến nay, cơ quan chức năng đã xác định được 9 người trong nhóm vượt biên. Trong đó, 4 người đã nhiễm nCoV gồm: “bệnh nhân 1440″, cô gái ở Đồng Tháp ( bệnh nhân 1452 , đã xuất viện hôm 11/1 sau ba lần liên tiếp có kết quả xét nghiệm âm tính với nCoV), hai nam thanh niên ở TP HCM ” bệnh nhân 1451 ” và ” bệnh nhân 1453 “.

Ngày 30/12, Cơ quan an ninh điều tra Công an An Giang khởi tố vụ án Tổ chức cho người khác nhập cảnh trái phép. Tiếp đó, Phan Thanh Hùng, 39 tuổi cùng 4 đồng phạm (29-31 tuổi) đưa nhóm người vượt biên từ Campuchia vào huyện An Phú bị khởi tố.

Ngày 1/1, Công an tỉnh Vĩnh Long khởi tố vụ án Làm lây lan dịch bệnh.

Lịch Trình 11 Bệnh Nhân Covid Được Công Bố Ngày Hôm Nay

Ban Chỉ đạo Phòng chống dịch COVID-19 thành phố Đà Nẵng cung cấp thông tin về kết quả điều tra, giám sát, xử lý đối với 11 Trường hợp bệnh nhân mắc COVID-19 được công bố ngày 20/8, cụ thể:

1. Bệnh nhân số 994: N.N.K.T – Nữ (1982, đường Trần Bình Trọng, P. Phước Ninh, Q. Hải Châu, Tp. Đà Nẵng.) – Nhân viên ngân hàng Eximbank – Chi nhánh Đà Nẵng (48 Trần Phú, Q. Hải Châu, TP Đà Nẵng)

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Hiện tại bệnh nhân đang sống cùng chồng P.T.Q và 03 người con (P.V.T.T, P.N.T.B và P.T.B) tại đường Trần Bình Trọng, P. Phước Ninh. Từ ngày 31/7, bệnh nhân đã tạm dừng công việc tại Ngân hàng Eximbank do thực hiện việc giãn cách xã hội. Từ ngày 31/7 đến 04/8, bệnh nhân ở nhà, tiếp xúc với những người trong gia đình. Thỉnh thoảng bệnh nhân cùng 02 con (P.V. T.T, P.N.T.B) đến nhà bố mẹ chồng ở đường Tăng Bạt Hổ, P. Hải Châu 2, Q. Hải Châu chơi. Tại đây, bệnh nhân và 02 con tiếp xúc với bố chồng (bệnh nhân số 742 được Bộ Y tế công bố ngày 06/8) và mẹ chồng (bệnh nhân số 804 được Bộ Y tế công bố ngày 08/8). Ngày 05/8, bệnh nhân tiếp tục đến nhà bố, mẹ chồng. Tối cùng ngày, sau khi bố chồng, là bệnh nhân số 742 có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2, bệnh nhân cùng chồng và 02 con (P.V. T.T, P.N.T.B) được chuyển đến cách ly tại ký túc xá Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng, Q. Hải Châu. Ngày 06/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm dịch hầu họng (lần 1) và cho kết quả (-) với vi rút SARS-CoV-2. Từ ngày 06/8 đến 10/8, bệnh nhân cùng chồng và 02 người con (P.V. T.T, P.N.T.B) tiếp tục được cách ly tại phòng 117 ở khu cách ly thuộc ký túc xá Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng. Từ ngày 11/8 đến 15/8, tại khu cách ly, bệnh nhân cùng 02 người con (P.V. T.T, P.N.T.B) được chuyển đến phòng 213.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 16 đến 18/8, bệnh nhân chỉ ở phòng 213 cùng với 02 người con (P.V. T.T, P.N.T.B) tại khu cách ly thuộc ký túc xá Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật – Đại học Đà Nẵng. Ngày 19/8 bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) và tối cùng ngày có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Trung tâm Y tế Hòa Vang.

2. Bệnh nhân số 995: N. T. T – Nữ (1971, thôn Bích Bắc, xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) – Kinh doanh tự do

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Bệnh nhân sống cùng con gái N. T.T (sinh viên Trường Cao đẳng Thương mại Đà Nẵng) tại thôn Bích Bắc, xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ngày 25/7, bệnh nhân đến chăm sóc mẹ N.T.M, là bệnh nhân điều trị tại Khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Đà Nẵng. Sau đó, trong ngày bệnh nhân trở về nhà tại tỉnh Quảng Nam. Từ ngày 25/7 đến 14/8, chị của bệnh nhân (bệnh nhân số 986 được Bộ Y tế công bố ngày 18/8) thay thế bệnh nhân chăm sóc mẹ tại Khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Đà Nẵng. Trong thời gian này, bệnh nhân tự cách ly ở nhà tại thôn Bích Bắc, xã Điện Hòa, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, tiếp xúc với con gái, không đến TP Đà Nẵng và cũng không tiếp xúc với bệnh nhân số 986. Thỉnh thoảng, bệnh nhân đến mua thức ăn tại điểm bán thực phẩm gần nhà, hoặc của những người bán rong và những người xung quanh nơi cư trú. Trong lúc tiếp xúc bệnh nhân luôn mang khẩu trang.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 15/8 đến 17/8 (không nhớ rõ ngày), bệnh nhân mua rau của vợ ông A, khi tiếp xúc cả 2 người không nói cH. với nhau và đều mang khẩu trang. Khoảng 16 giờ ngày 18/8, bệnh nhân chở con gái bằng xe máy từ thị xã Điện Bàn đến nhà em gái N. T.T tại tổ 6, thôn Lệ Sơn Bắc, xã Hòa Tiến, H. Hòa Vang. Tại đây, chỉ có con gái bệnh nhân vào nhà chị T, bệnh nhân đứng ngoài sân vàkhông tiếp xúc với ai. Nhà chị T có 4 người. Sau đó, bệnh nhân được 01 người quen (anh Đ, tên thường gọi là T, làm nghề sửa điện thoại tại quầy Thanh Số tại tổ 6, thôn Lệ Sơn Bắc, xãHòa Tiến, H. Hòa Vang)dùng xe máy chở đến Trung tâm y tế Q. Ngũ Hành Sơn để chăm sóc mẹ (cả hai người không đến địa điểm khác và không tiếp xúc với người khác). Khoảng 16 giờ 30 ngày 18/8, bệnh nhân có mặt tại Trung tâm Y tế Q. Ngũ Hành Sơn, Tại đây, bệnh nhân (có mang khẩu trang) khai báo y tế, tiếp xúc với 2 nhân viên y tế là L. T.T.B và Đ.T.S. Sau đó, điều dưỡng Đ.T.S đưa bệnh nhân đến khu cách ly và bệnh nhân được điều dưỡng T.T.H đưa đến phòng cách ly để chăm sóc mẹ N.T.M. Khoảng 19 giờ 15 cùng ngày, hộ lý L. T.T đưa cơm đến cho bệnh nhân. Sáng ngày 19/8, bệnh nhân tiếp xúc với bác sĩ H.T.K.C, bác sĩ N.Đ.L, bác sĩ Đ.N.C và điều dưỡng T.T.N đến khám và chăm sóc các bệnh nhân tại phòng cách ly. Cùng ngày, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng và có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2. Trong quá trình tiếp xúc với bệnh nhân, làm việc, các nhân viên y tế đều mặc trang phục phòng, chống dịch, đeo khẩu trang… theo quy định. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Phổi.

3. Bệnh nhân số 996: P.H.T – Nam (1992, thôn Trung Phước 2, xã Quế Trung, H. Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam) Tiền sử bệnh tật: Bệnh bạch cầu cấp

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân xuất hiện triệu chứng nghi ngờ

Bệnh nhân sống cùng gia đình tại thôn Trung Phước 2, xã Quế Trung, H. Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam. Ngày 25/7, bệnh nhân cùng bố và mẹ đến khám và bệnh nhân nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa Vĩnh Đức, đến khoảng 11 giờ cùng ngày, bệnh nhân được chuyển đến điều trị tại Khoa nội Thần kinh, Bệnh viện Đà Nẵng. Ngày 26/7 và 27/7, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Khoa nội Thần kinh, Bệnh viện Đà Nẵng. Trong thời gian này, mẹ bệnh nhân cũng được cách ly và trực tiếp chăm sóc bệnh nhân.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân xuất hiện triệu chứng nghi ngờ

Ngày 28/7, bệnh nhân tiếp tục được cách ly và điều trị tại Khoa nội Thần kinh, Bệnh viện Đà Nẵng. Ngày 29/7, tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 30/7, bệnh nhân tiếp tục được cách ly cùng với mẹ tại Khoa nội Thần kinh, Bệnh viện Đà Nẵng. Ngày 31/7, bệnh nhân được chuyển đến cách ly tại Bệnh viện Đa khoa Gia Đình Đà Nẵng, đến 19 giờ cùng ngày, bệnh nhân xuất hiện triệu chứng sốt. Ngày 01/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Đa khoa Gia Đình Đà Nẵng. Ngày 02/8, tại Bệnh viện Đa khoa Gia Đình Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 03/8, bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng nặng nên được chuyển đến cách ly và điều trị tại Khoa nội Thần kinh, Bệnh viện Đà Nẵng. Tại đây, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 3) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Từ ngày 04/8 đến 11/8, bệnh nhân được chuyển đến cách ly và điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, trong thời gian này bệnh nhân vẫn còn mệt mỏi và sốt. Ngày 12/8, vì tình trạng bệnh nhân chuyển biến nặng nên em trai vào chăm sóc bệnh nhân. Từ ngày 13/8 đến 17/8, bệnh nhân xuất hiện triệu chứng sốt cao, khó thở, đau họng. Trong khoảng thời gian này, bệnh nhân và em trai tiếp tục ở tại phòng thuộc khu cách ly cùng với khoảng 15 người (là các bệnh nhân và người nhà, trong đó có các bệnh nhân chuyển đến từ Bệnh viện Đà Nẵng). Ngày 18/8, tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 4), gửi đến Bệnh viện Phổi Đà Nẵng xét nghiệm. Tại đây, bệnh nhân có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, Bệnh viện Phổi Đà Nẵng gửi mẫu xét nghiệm của bệnh nhân đến Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP Đà Nẵng để xét nghiệm khẳng định và tối cùng ngày có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Phổi.

4. Bệnh nhân số 997: T. T. T. N – Nữ (1980, thôn Phú Trung, xã Đại Hiệp, H. Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.) – Nông dân

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Trước ngày 04/8, bệnh nhân ở cùng gia đình tại thôn Phú Trung, xã Đại Hiệp, H. Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Từ ngày 04/8 đến 18/8: Bệnh nhân đến chăm sóc mẹ chồng (Đ.T.B) là bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Tại đây, bệnh nhân Nga được cách ly và chăm sóc mẹ chồng tại phòng thuộc khu cách ly Bệnh viện Ung bướu cùng với một số người trong đó có các bệnh nhân chuyển đến từ Bệnh viện Đà Nẵng.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 15 đến ngày 17/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly và chăm sóc mẹ chồng tại phòng thuộc khu cách ly của Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Ngày 18/8, tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng, gửi đến Bệnh viện Phổi Đà Nẵng xét nghiệm. Tại đây, bệnh nhân có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2 Ngày 19/8, Bệnh viện Phổi Đà Nẵng gửi mẫu xét nghiệm của bệnh nhân đến Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP Đà Nẵng để xét nghiệm khẳng định và tối cùng ngày có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Phổi.

5. Bệnh nhân số 998: T.V.T – Nam (1973 Địa chỉ nhà trọ: tổ 2 thị trấn Châu Ổ, H. Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi)

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Khoảng đầu tháng 7, bệnh nhân cùng vợ N. T.T.N đến khám (u bàn chân trái) và bệnh nhân nhập viện điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Khoảng ngày 22/7, 23/7 (không nhớ rõ ngày), vào buổi trưa, bệnh nhân cùng vợ đón xe taxi của hãng Vinasun (không nhớ biển số xe) đến khám và nhập viện tại Khoa Ngoại chấn thương, Bệnh viện Đà Nẵng. Từ ngày 24/7 đến ngày 28/7, bệnh nhân chỉ ở tại Khoa Ngoại chấn thương, Bệnh viện Đà Nẵng, không đi đến nơi khác. Trong thời gian này, vợ bệnh nhân là người trực tiếp chăm sóc bệnh nhân. Ngày 29/7, tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Từ ngày 30/7 đến 03/8, bệnh nhân và vợ tiếp tục được cách ly tại phòng thuộc Khoa Ngoại chấn thương, Bệnh viện Đà Nẵng, tiếp xúc với 07 người cùng phòng (không nhớ rõ tên). Khoảng 15 giờ ngày 04/8, bệnh nhân cùng với vợ và 01 bệnh nhân khác được xe cấp cứu chuyển đến cách ly tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Tại đây, bệnh nhân cùng vợ được cách ly tại phòng cùng với một số người trong đó có các bệnh nhân chuyển đến từ Bệnh viện Đà Nẵng. Từ ngày 05/8 đến 14/8, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại phòng thuộc khu cách ly của Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 15/8 đến 17/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly và điều trị tại phòng thuộc khu cách ly của Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Ngày 18/8, tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2), gửi đến Bệnh viện Phổi Đà Nẵng xét nghiệm. Tại đây, bệnh nhân có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, Bệnh viện Phổi Đà Nẵng gửi mẫu xét nghiệm của bệnh nhân đến Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP Đà Nẵng để xét nghiệm khẳng định và tối cùng ngày có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Phổi Đà Nẵng.

6. Bệnh nhân số 1001: N.P.L.P – Nữ (1996, K882 Trường Chinh, P. Hòa Phát, Q. Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng) – Nhân viên Marketing (hiện đã tạm nghỉ)

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Bệnh nhân sống cùng gia đình tại K882 Trường Chinh. Từ ngày 01/8 đến 10/8, bệnh nhân chỉ ở nhà, tiếp xúc với những người trong gia đình, không đi đến nơi khác. Khoảng 15 giờ ngày 11/8, bệnh nhân đến mua hàng tại cửa hàng Vinmart trên đường Lê Trọng Tấn (không nhớ rõ địa chỉ), tiếp xúc với 01 nhân viên thu ngân và khoảng 2 – 3 khách hàng sau đó trở về nhà. Tối ngày 12/8:

+ Khoảng từ 19 giờ đến 19 giờ 30, dì bệnh nhân (là Bệnh nhân số 953 được Bộ Y tế công bố ngày 16/8) đến nhà chơi và tiếp xúc với bệnh nhân.

7. Bệnh nhân số 1002: N.T.B – Nữ (1965, thôn 9, xã Quế Phú, H. Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Ngày 26/7, bệnh nhân đến chăm sóc bố N.Đ.N (82 tuổi), là bệnh nhân điều trị tại Khoa Nội Thận – Nội tiết niệu, Bệnh viện Đà Nẵng. Từ ngày 26/7 đến 02/8, bệnh nhân chỉ ở tại Khoa Nội Thận – Nội tiết niệu chăm sóc bố, không đi đến nơi khác. Trong thời gian này (không nhớ rõ ngày), tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Tối ngày 02/8 bệnh nhân được chuyển đến cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Tại đây bệnh nhân ở cùng phòng với 05 người. Từ ngày 03/8 đến 12/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 13/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 14/8, bệnh nhân chỉ ở trong phòng thuộc khu cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 15/8 đến 17/8, bệnh nhân chỉ ở trong phòng thuộc khu cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 18/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 3) và có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 4) và ngày 20/8 có kết quả xét nghiệm khẳng định (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Trung tâm Y tế Hòa Vang

8. Bệnh nhân số 1003: P.T.L – Nữ (1955, đường Dương Vân Nga, tổ 60, P. Mân Thái, Q. Sơn Trà, TP Đà Nẵng

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ tháng 5, bệnh nhân thường xuyên chăm sóc em trai N.L.H, là bệnh nhân điều trị tại Khoa Y học nhiệt đới, Bệnh viện Đà Nẵng. Từ khoảng giữa tháng 7 đến 02/8, bệnh nhân chỉ ở tại Bệnh viện Đà Nẵng chăm sóc em trai, không đi đến nơi khác. Trong khoảng thời gian này (không nhớ rõ ngày), tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Tối ngày 02/8, bệnh nhân được chuyển đến cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Từ ngày 03/8 đến 12/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 13/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 14/8, tại khu cách ly, khi có bệnh nhân trong phòng có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-Cov-2, bệnh nhân được chuyển sang phòng khác cách ly.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 15/8 đến 17/8, bệnh nhân chỉ ở trong phòng thuộc khu cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 18/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 3) và có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 4) và ngày 20/8 có kết quả xét nghiệm khẳng định (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Trung tâm Y tế Hòa Vang.

9. Bệnh nhân số 1004: H.T.M.T – Nữ (1976, thôn 8, xã An Ninh Đông, H. Tuy An, tỉnh Phú Yên)

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Khoảng giữa tháng 7, bệnh nhân đến chăm sóc mẹ N. T.T, là bệnh nhân điều trị tại Khoa Nội thận – Nội tiết niệu, Bệnh viện Đà Nẵng. Từ khoảng giữa tháng 7 đến 02/8, bệnh nhân chỉ ở tại Khoa Nội Thận – Nội tiết niệu chăm sóc mẹ, không đi đến nơi khác. Ngày 29/7, tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Tối ngày 02/8, bệnh nhân được chuyển đến cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Từ ngày 03/8 đến 12/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 13/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 14/8, tại khu cách ly, khi có bệnh nhân trong phòng có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-Cov-2, bệnh nhân được chuyển đến phòng khác cách ly.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm Ngày 15/8, 16/8 và 17/8, bệnh nhân chỉ ở trong phòng thuộc khu cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 18/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 3) và có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 4) và ngày 20/8 có kết quả xét nghiệm khẳng định (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Trung tâm Y tế Hòa Vang.

10. Bệnh nhân số 1005: H.T.N – Nữ (1962, thôn Trước Đông, xã Hòa Nhơn, H. Hòa Vang, Tp. Đà Nẵng)

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Ngày 26/7, bệnh nhân đến chăm sóc chồng (Bệnh nhân số 702 được Bộ Y tế công bố ngày 05/8), là bệnh nhân điều trị tại Khoa Nội thận – Nội tiết niệu, Bệnh viện Đà Nẵng. Từ ngày 26/7 đến 02/8, bệnh nhân chỉ ở tại Khoa Nội Thận – Nội tiết niệu chăm sóc chồng, không đi đến nơi khác. Trong thời gian này (không nhớ rõ ngày), tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Tối ngày 02/8, bệnh nhân được chuyển đến cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Tại đây, bệnh nhân ở cùng phòng với N.T.B (1965), H.T.N (1962), P. T.T.V (1976), T.T.S (1974) và N.V.Q (1977). Từ ngày 03/8 đến 12/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 13/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 14/8, bệnh nhân chỉ ở trong phòng thuộc khu cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm: Từ ngày 15/8 đến 17/8, bệnh nhân chỉ ở trong phòng thuộc khu cách ly tại Sư đoàn 375, Q. Cẩm Lệ. Ngày 18/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 3) và có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, tại khu cách ly, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 4) và ngày 20/8 có kết quả xét nghiệm khẳng định (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Trung tâm Y tế Hòa Vang.

11. Bệnh nhân số 1006: N.T. T. N – Nữ (1972, tổ 2 thị trấn Châu Ổ, H. Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) – Nông dân

Tiền sử dịch tễ trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Khoảng đầu tháng 7, bệnh nhân đưa chồng T.V.T đến khám (u bàn chân trái) và nhập viện điều trị tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Khoảng ngày 22/7, 23/7 (không nhớ rõ ngày), vào buổi trưa, bệnh nhân cùng chồng đón xe taxi của hãng Vinasun (không nhớ biển số xe) đến khám tại Bệnh viện Đà Nẵng, sau đó chồng bệnh nhân nhập viện vào Khoa Ngoại chấn thương. Từ ngày 24/7 đến 28/7, bệnh nhân chỉ ở tại Khoa Ngoại chấn thương, Bệnh viện Đà Nẵng, chăm sóc chồng, không đi đến nơi khác. Ngày 29/7, tại Bệnh viện Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 1) và có kết quả xét nghiệm (-) với vi rút SARS-CoV-2. Từ ngày 30/7 đến 03/8 bệnh nhân và chồng tiếp tục được cách ly tại phòng thuộc Khoa Ngoại chấn thương, Bệnh viện Đà Nẵng, tiếp xúc với 07 người cùng phòng (không nhớ rõ tên). Khoảng 15 giờ ngày 04/8, bệnh nhân cùng với chồng và 01 bệnh nhân khác được xe cấp cứu chuyển cách ly tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Tại đây, bệnh nhân cùng chồng được cách ly tại phòng cùng với một số người trong đó có các bệnh nhân chuyển đến từ Bệnh viện Đà Nẵng. Từ ngày 05/8 đến 14/8, bệnh nhân được cách ly và chăm sóc chồng tại phòng thuộc khu cách ly của Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng.

Lịch trình cụ thể 3 ngày trước khi bệnh nhân được lấy mẫu xét nghiệm

Từ ngày 15/8 đến 17/8, bệnh nhân tiếp tục được cách ly và chăm sóc chồng tại phòng thuộc khu cách ly của Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng. Ngày 18/8, tại Bệnh viện Ung bướu Đà Nẵng, bệnh nhân được lấy mẫu dịch hầu họng (lần 2) gửi đến Bệnh viện Phổi Đà Nẵng và có kết quả xét nghiệm nghi ngờ với vi rút SARS-CoV-2. Ngày 19/8, Bệnh viện Phổi Đà Nẵng gửi mẫu xét nghiệm của bệnh nhân đến Trung tâm Kiểm soát bệnh tật TP Đà Nẵng để xét nghiệm khẳng định và tối cùng ngày có kết quả xét nghiệm (+) với vi rút SARS-CoV-2. Hiện tại, bệnh nhân được cách ly và điều trị tại Bệnh viện Phổi Đà Nẵng.