Top 4 # Hội Chứng Wolff Parkinson White Type A Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Hội Chứng Wolff Parkinson White (Wpw)

Hội chứng Wolff Parkinson White (WPW):

Hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW), là sự hiện diện của một con đường điện phụ bất thường trong tim dẫn đến thời gian của một nhịp đập rất nhanh (nhịp tim nhanh).

Các đường điện phụ trong hội chứng Wolff-Parkinson-White là từ khi sinh ra. Trong khi mọi người ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ sơ sinh, có thể trải nghiệm triệu chứng hội chứng Wolff-Parkinson-White, các giai đoạn nhịp tim nhanh thường đầu tiên xuất hiện khi đang ở tuổi thiếu niên hoặc 20 tuổi.

Trong hầu hết trường hợp, cơn tim đập nhanh không đe dọa tính mạng, nhưng rất nghiêm túc về vấn đề tim có thể xảy ra. Điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-White có thể ngừng hoặc ngăn chặn các cơn nhịp tim nhanh, và phẫu thuật để đóng đường điện phụ thường có thể sửa các vấn đề nhịp tim.

Các triệu chứng

Triệu chứng của hội chứng Wolff-Parkinson-White là nhịp tim nhanh.

Dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng thường gặp bao gồm

Cảm giác tim đập nhanh, rung hoặc đánh trống ngực.

Dễ dàng mệt mỏi khi tập thể dục.

Các triệu chứng thường xuất hiện lần đầu tiên ở những người tuổi thiếu niên hay độ tuổi 20. Cơn nhịp đập rất nhanh có thể bắt đầu đột ngột và kéo dài trong vài giây hoặc vài giờ. Cơn thường xảy ra trong thời gian tập thể dục.

Các triệu chứng trong nhiều trường hợp nghiêm trọng

Nếu một người với Wolff-Parkinson-White cũng có bệnh tim khác, nhịp tim nhanh có thể dẫn đến các triệu chứng nghiêm trọng khác, bao gồm:

Các triệu chứng ở trẻ em

Các triệu chứng ở trẻ sơ sinh với hội chứng Wolff-Parkinson-White có thể bao gồm:

Không khóc hoặc hoạt động.

Tim đập nhanh có thể nhìn thấy trên ngực.

Không có triệu chứng

Một người có thể có đường dẫn phụ trong tim nhưng không trải nghiệm nhịp tim nhanh và không có triệu chứng. Tình trạng này được gọi là Wolff-Parkinson-White kiểu mẫu, chỉ phát hiện tình cờ khi kiểm tra tim vì những lý do khác.

Nguyên nhân

Các đường điện phụ của hội chứng Wolff-Parkinson-White là có từ khi sinh. Một gen bất thường (gen đột biến) là nguyên nhân của tỷ lệ nhỏ các trường hợp rối loạn. Nếu không, lý do tại sao con đường phụ phát triển ít được biết.

Dẫn truyền điện bất thường

Tim được tạo thành từ bốn buồng – hai buồng trên (tâm nhĩ) và hai ngăn dưới (tâm thất). Nhịp điệu của tim bình thường được điều khiển bởi bộ phận tạo nhịp tim tự động – nút xoang – nằm ở tâm nhĩ phải. Nút xoang tạo xung điện bắt đầu mỗi nhịp đập của tim.

Từ nút xoang, xung điện đi qua tâm nhĩ, gây ra co bóp cơ tâm nhĩ và bơm máu vào các tâm thất. Các xung điện sau đó đến một nhóm các tế bào gọi là nút nhĩ thất (AV node) – thường là con đường duy nhất cho tín hiệu đi từ tâm nhĩ tới tâm thất.

Các tín hiệu điện nút AV chậm lại trước khi gửi nó đến các tâm thất. Điều này cho phép các tâm thất nhận đầy máu hơi chậm trễ. Khi xung điện đến, các cơ tâm thất co, khiến nó bơm máu tới phổi hoặc với phần còn lại của cơ thể.

Trong hội chứng Wolff-Parkinson-White, một đường kết nối điện phụ từ tâm nhĩ đến tâm thất. Điều này có nghĩa là tín hiệu điện có thể bỏ qua nút AV. Khi sử dụng đường vòng xung điện qua tim, tâm thất được kích hoạt quá sớm – vấn đề này được gọi là hội chứng tiền kích thích.

Tim đập nhanh

Việc thêm đường điện phụ trong tim không nhất thiết gây ra nhịp tim nhanh. Tuy nhiên, tình trạng này có thể làm cho các quá trình khác tăng nhịp tim, bao gồm:

Xung điện lặp lại. Các vấn đề với một nhịp tim nhanh thường xảy ra ở hội chứng Wolff-Parkinson-White vì xung điện đi xuống một con đường và lên một đường khác, tạo ra một vòng lặp tín hiệu. Tình trạng này được gọi là nhịp tim nhanh vào lại nút AV, các xung đến tâm thất với tỷ lệ nhanh. Kết quả là các tâm thất co bóp rất nhanh.

Xung điện vô tổ chức. Nếu xung điện tâm nhĩ phải không bắt đầu đúng, xung điện có thể qua tâm nhĩ một cách vô tổ chức, gây co bóp nhanh chóng. Tình trạng này được gọi là rung nhĩ. Những tín hiệu vô tổ chức này cũng tăng tỷ lệ bơm của tâm thất ở một mức độ nhất định. Nếu có một đường điện phụ thêm, như với hội chứng Wolff-Parkinson-White, tâm thất có thể co bóp nhanh hơn. Các tâm thất không có thời gian để được đổ đầy máu và không đủ máu bơm cho cơ thể. Điều này ít phổ biến nhưng tình trạng có thể đe dọa tính mạng.

Các biến chứng

Tín hiệu điện hỗn loạn qua các tâm thất và tâm thất đập rung nhanh (rung thất).

Huyết áp thấp (hạ huyết áp).

Tim không có khả năng bơm đủ máu (suy tim).

Thường xuyên ngất.

Các xét nghiệm và chẩn đoán

Bác sĩ có thể thực hiện chẩn đoán hội chứng Wolff-Parkinson-White dựa trên các câu trả lời cho các câu hỏi về triệu chứng, khám và kiểm tra tim.

Điện tâm đồ (ECG). ECG hoặc EKG – sử dụng bộ cảm biến nhỏ (điện cực) gắn vào ngực và cánh tay để ghi lại các tín hiệu điện khi chúng đi qua tim. Bác sĩ có thể tìm kiếm các mẫu trong những tín hiệu đó cho thấy sự hiện diện của một đường điện phụ ở tim. Con đường này thường có thể được phát hiện ngay cả khi hiện không trải nghiệm nhịp tim nhanh. Bác sĩ cũng có thể yêu cầu sử dụng các thiết bị điện tâm đồ di động tại nhà để cung cấp thêm thông tin về nhịp tim. Các thiết bị này bao gồm:

Holter. Thiết bị điện tâm đồ di động được mang trong túi hoặc đeo trên vai hoặc đai đeo. Nó ghi lại hoạt động của tim toàn bộ thời gian 24-giờ. Bác sĩ có thể sẽ yêu cầu giữ một cuốn nhật ký trong cùng 24 giờ. Mô tả bất kỳ triệu chứng có trải nghiệm và ghi lại thời gian chúng xảy ra.

Ghi sự kiện. Thiết bị điện tâm đồ di động được thiết kế để theo dõi hoạt động tim trong một vài tuần đến vài tháng. kích hoạt nó chỉ khi có những triệu chứng nhịp tim nhanh. Khi cảm thấy các triệu chứng, nhấn nút, và điện tâm đồ trước đó vài phút và sau vài phút được ghi lại. Điều này cho phép bác sĩ xác định nhịp tim tại thời điểm các triệu chứng.

Thử nghiệm điện sinh lý. Bác sĩ có thể khuyên nên tiến hành đánh giá điện sinh lý để xác định chẩn đoán hoặc để xác định vị trí của con đường phụ. Trong thử nghiệm này, ống thông có gắn các điện cực được luồn qua mạch máu đến các điểm khác nhau trong trái tim. Khi đặt đúng chỗ, các điện cực có thể xác định chính xác bản đồ dẫn của các xung điện trong mỗi nhịp và xác định một con đường điện phụ.

Phương pháp điều trị và thuốc

Mục tiêu điều trị cho hội chứng Wolff-Parkinson-White là để làm chậm nhịp tim nhanh khi nó xảy ra và ngăn chặn các cơn trong tương lai.

Cắt cơn nhịp tim nhanh

Có thể tự cảm nhận nhịp tim nhanh, và có thể làm chậm nhịp tim bằng cách sử dụng động tác vật lý đơn giản. Tuy nhiên, có thể cần uống thuốc hay điều trị y tế khác để làm chậm nhịp tim. Cách để làm chậm nhịp tim bao gồm:

Nghiệm pháp Vagal. Bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện một hành động, được gọi là nghiệm pháp vagal trong cơn nhịp tim nhanh. Vagal ảnh hưởng đến dây thần kinh phế vị, giúp điều hòa nhịp tim. Nghiệm pháp bao gồm ho, gặp người xuống với tự nén động ruột, và chườm lạnh mặt.

Thuốc. Nếu nghiệm pháp vagal không ngừng nhịp tim nhanh, có thể cần tiêm thuốc chống nhịp nhanh như adenosine, để phục hồi nhịp tim bình thường. Tiêm thuốc này được sử dụng tại bệnh viện. Bác sĩ cũng có thể chỉ định thuốc viên như flecainide (Tambocor) hoặc propafenone (Rythmol), nếu có tim đập nhanh mà không kết quả với nghiệm pháp vagal.

Sốc điện. Cú sốc điện được gửi đến tim thông qua bản cực trên ngực. Ảnh hưởng đến các xung điện trong tim và khôi phục lại nhịp điệu bình thường. Nó thường được sử dụng khi nghiệm pháp Vagal, thuốc không có hiệu quả.

Cắt bỏ tín hiệu điện tim (RF). Quá trình này là điều trị phổ biến nhất cho hội chứng Wolff-Parkinson-White. Trong tiến trình này, ống thông được luồn qua các mạch máu đến tim. Các điện cực được làm nóng để cắt bỏ đường điện phụ và ngăn không cho nó gửi tín hiệu điện. Thủ tục này có hiệu quả cao, và các biến chứng – có thể bao gồm các tổn thương tim hoặc nhiễm trùng là không phổ biến.

Thuốc. Thuốc chống loạn nhịp có thể ngăn chặn nhịp tim nhanh khi dùng thường xuyên. Thuốc thường được chỉ định cho những người không thể cắt bỏ tín hiệu bằng RF vì lý do nào đó hoặc không muốn làm thủ tục này.

Phẫu thuật. Tỉ lệ thành công khi phẫu thuật cắt bỏ của con đường phụ bằng cách sử dụng phẫu thuật tim mở gần như 100 phần trăm. Tuy nhiên, do ống thông cắt bỏ với tần số vô tuyến là hiệu quả và ít xâm lấn, phẫu thuật cho hội chứng Wolff-Parkinson-White bây giờ là hiếm. Nó thường dành cho những người đang có phẫu thuật tim cho các lý do khác.

Nếu không có triệu chứng

Nếu Wolff-Parkinson-White, nhưng không có bất kỳ triệu chứng, có thể không cần điều trị. Ở một số người không có triệu chứng, con đường phụ có thể biến mất một cách tự nhiên theo thời gian.

Bác sĩ có thể đánh giá các nguy cơ cơn nhịp tim nhanh, dựa trên những phát hiện từ điện tâm đồ hoặc kiểm tra điện sinh lý. Nếu xác định có thể có nguy cơ, bác sĩ có thể đề nghị cắt bỏ bằng ống thông với tần số vô tuyến.

Phong cách sống và biện pháp khắc phục

Nếu có kế hoạch thực hiện để đối phó với cơn nhịp tim nhanh, có thể cảm thấy mất bình tĩnh và kiểm soát khi xảy ra. Nói chuyện với bác sĩ về:

Khi nào và làm thế nào để sử dụng nghiệm pháp vagal ?.

Khi nào cần gọi bác sĩ ?.

Khi tìm kiếm sự chăm sóc khẩn cấp ?.

Cũng có thể tránh những chất có thể gây lên cơn nhịp tim đập nhanh, bao gồm:

Pseudoephedrine – thuốc thông mũi.

Thành viên chúng tôi

Nội dung của Holevn Health chỉ nhằm mục đích cung cấp thông tin về: Hội chứng Wolff Parkinson White (WPW) và không nhằm mục đích thay thế cho tư vấn, chẩn đoán hoặc điều trị y tế chuyên nghiệp. Vui lòng liên hệ với bác sĩ hoặc phòng khám, bệnh viện gần nhất để được tư vấn. Chúng tôi không chấp nhận trách nhiệm nếu bệnh nhân tự ý điều trị mà không tuân theo chỉ định của bác sĩ.

Tham khảo từ: https://www.dieutri.vn/timmach/hoi-chung-wolff-parkinson-white-wpw và chúng tôi tổng hợp.

Những Điều Cần Biết Về Hội Chứng Wolff

Hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW) là một dạng rối loạn nhịp tim với những nhịp tim nhanh bất thường xuất hiện trong khoảng thời gian ngắn, với tỷ lệ mắc là 1 – 3/ 1.000 người, có thể đe dọa tính mạng người bệnh nếu nó xuất hiện cùng rung nhĩ.

Nguyên nhân gây ra Hội chứng Wolff-Parkinson-White

Nguyên nhân của hội chứng Wolff-Parkinson-White được phát hiện là do trái tim của người bệnh bẩm sinh đã có thêm một đường nối điện phụ (cấu tạo từ các sợi cơ tim) trong hệ thống dẫn truyền xung điện tim, gây ra bởi nhóm các sợi cơ tim bất thường xuất hiện trong tim của thai. Xung điện tim thay vì đi từ tâm nhĩ đến tâm thất như bình thường thì lại đi qua đường nối điện phụ này, tạo thành một con đường dẫn truyền ngắn hơn gây ra nhịp tim nhanh trên thất.

Đường nối điện phụ trong hội chứng Wolff-Parkinson-White làm rối loạn nhịp tim

Nhiều người có đường nối điện phụ này nhưng không hề phát bệnh cho đến khi về già, nhưng cũng có những trường hợp phát hiện mắc hội chứng này rất sớm, ở độ tuổi từ 20 – 40. Hội chứng Wolff-Parkinson-White không có triệu chứng vẫn có thể phát hiện được khi người bệnh tình cờ đo điện tâm đồ ở bệnh viện để khám các bệnh lý khác.

Hội chứng Wolff-Parkinson-White có nguy hiểm không?

Hội chứng Wolff-Parkinson-White đôi khi có thể đe dọa tính mạng, đặc biệt là nếu nó xảy ra cùng một loại rối loạn nhịp tim được gọi là rung nhĩ. Tuy nhiên, tình trạng này hiếm khi xảy ra và có thể loại bỏ nguy cơ này nếu người bệnh được phát hiện và điều trị sớm.

Dấu hiệu nhận biết Hội chứng Wolff-Parkinson-White

Nếu bạn mắc hội chứng Wolff-Parkinson-White có triệu chứng, bạn sẽ cảm nhận được các giai đoạn trái tim đập nhanh, trước khi đột ngột chậm lại. Những nhịp tim nhanh bất thường này còn còn được gọi là nhịp nhanh trên thất (SVT).

– Tim đập nhanh, dồn dập

– Lo lắng, toát mồ hôi

Cơn nhịp nhanh trên thất có thể chỉ kéo dài trong vài giây đến vài phút hoặc một vài giờ, hiếm có trường hợp nào kéo dài nhiều ngày. Tùy thuộc vào từng người mà cơn tim nhanh trên thất có thể xảy ra 1 vài lần mỗi ngày, có người lại chỉ xuất hiện vài lần trong năm. Nó thường xảy ra một cách ngẫu nhiên không thể dự đoán trước. Tuy nhiên, một số người bệnh cho rằng họ thường bị cơn tim nhanh trên thất khi tập thể dục cường độ cao hoặc uống quá nhiều rượu, cà phê.

Khi nào cần đi khám

Đi khám để phát hiện sớm hội chứng Wolff-Parkinson-White

Nếu bạn chưa được chẩn đoán mắc hội chứng Wolff-Parkinson-White mà có các triệu chứng đã nêu ở trên, bạn nên đến bệnh viện sớm để được điều trị. Nếu các triệu chứng kéo dài hoặc nghiêm trọng, bạn cần gọi ngay cấp cứu hoặc nhờ người thân đưa đi bệnh viện càng sớm càng tốt.

Chẩn đoán hội chứng Wolff-Parkinson-White

Hội chứng Wolff-Parkinson-White thường được chẩn đoán dễ dàng bằng phương pháp đo điện tâm đồ. Do đó, nếu bạn đến bệnh viện với các nghi vấn mắc hội chứng này, bạn sẽ được chỉ định đo điện tâm đồ đầu tiên. Tuy nhiên, không phải lúc nào cơn tim nhanh cũng dễ dàng xuất hiện, nhất là trong lúc đo điện tâm đồ nên người bệnh sẽ phải đeo một thiết bị điện tâm đồ di động (máy Holter) trong một vài ngày để phát hiện các biểu hiện bất thường.

Điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-White

Trong nhiều trường hợp, hội chứng Wolff-Parkinson-White là vô hại, thời gian xuất hiện ngắn và ổn định nên không cần điều trị.

Trong trường hợp các triệu chứng xuất hiện thường xuyên và nghiêm trọng, bạn cần được theo dõi và điều trị sớm. Mục tiêu trong điều trị hội chứng Wolff-Parkinson-White bao gồm: Dừng cơn tim nhanh trên thất hiện có và ngăn ngừa cơn nhịp nhanh tái phát trong tương lai.

Dừng cơn tim nhanh trên thất

Có ba kỹ thuật và phương pháp điều trị chính để ngừng cơn tim nhanh trên thất do hội chứng WPW, bao gồm:

– Bài tập Vagal: Người bệnh hít vào 1 hơi thật sâu, bịt mũi, ngậm miệng và cố gắng thở ra. Bài tập này kích thích vào dây thần kinh phế vị và làm chậm lại các tín hiệu điện tim.

Thuốc tiêm adenosine thường được áp dụng khi người bệnh điều trị ở bệnh viện, sau khi thực hiện bài tập Vagal nhưng không có tác dụng.

Dùng phương pháp sốc điện để loại bỏ các tín hiệu điện tim đang bị rối loạn.

Ngăn ngừa cơn tim nhanh trên thất tái phát

Để phòng ngừa cơn tim nhanh trên thất tái phát do hội chứng Wolff-Parkinson-White, người bệnh cần:

– Thay đổi lối sống: Hạn chế uống rượu bia, tập thể dục ở mức độ vừa phải sẽ giúp hạn chế các cơn tim nhanh trên thất tái phát.

Loại thuốc chống loạn nhịp tim như amiodarone giúp ngăn ngừa cơn tim nhanh tái phát do chúng có khả năng làm chậm các xung điện trong tim.

– Đốt điện bằng năng lượng sóng cao tần: Phương pháp này giúp loại bỏ đường nối điện phụ bẩm sinh trong tim, có tác dụng tốt với khoảng 95% các trường hợp mắc hội chứng Wolff-Parkinson-White.

Điều Chỉnh Người Trẻ Có Mẫu Điện Tâm Đồ Hội Chứng Wolff

1. Mở đầu

Khuyến cáo cho việc điều chỉnh các bệnh nhân có mẫu điện tâm đồ hội chứng WPW có triệu chứng đã được phổ cấp. Nhưng với người có mẫu điện tâm đồ (ECG) không có triệu chứng vẫn là một vấn đề.

1. Mở đầu

Khuyến cáo cho việc điều chỉnh các bệnh nhân có mẫu điện tâm đồ hội chứng WPW có triệu chứng đã được phổ cấp. Nhưng với người có mẫu điện tâm đồ (ECG) không có triệu chứng vẫn là một vấn đề. Do các vần đề về tầm soát, về lợi hại của can thiệp vần còn nhiều tranh cãi. Các ý kiến đồng thuận của các chuyên gia của Hội Nhịp tim Mỹ, Hội Nhịp tim châu Âu đã mở ra những khuyến cáo trong điều chỉnh các người trẻ có mẫu ECG WPW không triệu chứng. Tại Hội nghị Tim Mạch toàn quốc lần thứ 13 ở Hạ Long chúng tôi đã trình bày các quan điểm về vần đề này. Trong bài viết sau đây xin đề cập dựa trên các nghiên cứu đã được tiến hành và các ý kiến đồng thuận của các chuyên gia.

Trước khi đi vào vấn đề chúng tôi xin nhắc lại một số quy định trong các khuyến cáo.

A- Cấp độ khuyến cáo

– Class I: các điều kiện có bằng chứng hoặc và sự nhất trí chung cho các thủ thuật hoặc kế hoạch điều trị có lợi, hữu ích và có hiệu quả.

– Class II: các điều kiện có bằng chứng chống lại và hoặc không đồng thuận lựa chọn về sự hữu ích / hiệu quả của thủ thuật và điều trị

+ Class IIa: khối lượng các bằng chứng/ sự lựa chọn là ưu thế cho hữu ích và hiệu quả

+ Class IIb: hữu ích / hiệu quả ít hơn được tính toán bằng bằng chứng và lựa chọn

– Class III: các trạng thái có sự chống lại bằng chứng và hoặc nhất trí chung thủ thuật hoặc điều trị là không hữu ích và không có hiệu quả và một số ca còn có hại.

B- Mức độ bằng chứng

– Mức độ bằng chứng A: các tư liệu đưa ra từ nhiều nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiêu hoặc các phân tích gộp

– Mức độ bằng chứng B: tư liệu đưa ra từ một nghiên cứu ngẫu nhiên đơn thuần hoặc các nghiên cứu không ngẫu nhiên.

– Mức độ bằng chứng C: chỉ có sự lựa chọn đồng thuận của các chuyên gia, các nghiên cứu trường hợp, hoặc chuẩn chăm sóc (standard care).

– Mức độ chứng cứu D: sự lựa chọn của chuyên gia không có nghiên cứu.

Từ khi Wolff, Parkinson và White xuất bản bài cảnh báo vào năm 1930 người ta đã biết nhiều về giải phẫu, điện sinh lý và bệnh sử tự nhiên của các đường nối phụ biểu hiện dẫn truyền xuôi. Về kinh điển, các bệnh nhân có WPW được biểu hiện bằng hồi hộp hoặc muốn sỉu gây ra do nhịp nhanh chuyển động qua lại nhĩ thất, hoặc ít phổ biến hơn, nhịp nhanh nhĩ tiên phát. Dẫn truyền nhanh của rung nhĩ (AF) qua đường phụ đưa đến rung thất (VF) là hiếm nhưng thật đáng tiếc có thể lại là biểu hiện đầu tiên của hội chứng WPW, thậm chí ở người trẻ . Sự tiến bộ của trang thiết bị và kỹ thuật loại bỏ đường phụ bằng năng lượng radio qua catheter đã mang đến trị liệu hiệu quả cao cho WPW ở trẻ em.

Do sự hiểu biết đã tăng lên về đột tử không lượng trước được ở cộng đồng có chuyên môn và không có chuyên môn, nguy cơ thực sự nhưng nhỏ của đột tử bất thình lình ở người có WPW không triệu chứng và cả vần để đang tranh cãi về WPW không triệu chứng trong các năm gần đây.

2. Bệnh sử tự nhiên và thể hiện WPW

Phần lớn các bệnh nhân WPW có giải phẫu tim bình thường. Các đường phụ được cho là tàn dư của bào thai, như đã được chứng minh bằng chẩn đoán nhịp nhanh trên thất (SVT) trong tử cung và bằng tỷ lệ lớn hơn của WPW ở trẻ mới sinh và nhũ nhi. WPW cũng thể hiện ở các bệnh nhân có bệnh tim bẩm sinh cấu trúc (CHD) và bệnh cơ tim, phần lớn được ghi nhận ở bất thường Ebstein. Hiếm hơn, kích thất sớm có thể cùng tồn tại với các u tim hình que. Các đường phụ này thường được khám phá ở trẻ mới sinh, được kết hợp với các tumors khu trú ở đường rạch khía nhĩ thất (AV groove) hay vách, và khả năng do làm phá vỡ tình toàn vẹn về điện học của vòng nhĩ thất hơn là tồn tại các đường phụ thật sự. Bệnh cơ tim phì đại có thể kết hợp với WPW, thường trong trạng thái đột biến gene chuyên biệt.

Lo lằng nhất là biểu hiện không phổ biến của ngất hoăc ngừng tim đột ngột được cứu sống như là biểu hiện đầu tiên của hội chứng WPW. Cơ chế của đột tử ở các bệnh nhân WPW là dẫn truyền rất nhanh của cuồng nhĩ và rung nhĩ dẫn đến rung thất (VF). Mặc dù đa số các bệnh nhân WPW được cứu khỏi biến cố đột tử đã có triệu chứng từ trước đó, VF hoặc ngừng tim có thể là biến cố thường trực, đặc biệt ở trẻ em.

Bằng chứng sớm nhất của nguy cơ cao ở trẻ em không có triệu chứng đã thực sự còn bị coi nhẹ. Năm 1979, Llein và các cộng sự đã thông báo trên 25 bệnh nhân có WPW đã bị VF, tất cả đều là các bệnh nhân không có triệu chứng trước đó và đều là trẻ em, tuổi 8, 9 và 16 tuổi. Năm 1993, Russell và các cộng sử đã thông báo các biểu hiện nguy hiẻm đến tính mạng trong một nhóm 256 bệnh nhân có WPW. Trong số 60 trẻ em trong nghiên cứu, 6 (10%) có triệu chứng nguy hiểm tính mạng như là biểu hiện khởi đầu của bệnh nhân. Có 48% trong số 42 bệnh nhân nhi có WPW và ngừng tim, ngừng tim là triệu chứng đầu tiên. Năm 1996, Bromberg và cộng sự thông báo từ một nhóm 60 em nhỏ ≤ 18 tuổi có WPW đã trải qua các can thiệp ngoại khoa khác nhau, 2/10 bệnh nhân nguy cơ cao có ngừng tim VF được chứng minh bằng tư liệu như là một biểu hiện khởi đầu. Mặc dù không có nghiên cứu hồi cúu này tiếp sau một tập hợp các trẻ em không triệu chứng có WPW để theo dõi các biến cố, các tư liệu đã gợi mạnh mẽ tỷ lệ triệu chứng nguy hiểm tính mạng ở các trẻ em có mẫu ECG WPW không triệu chứng có thể là cao hơn nhiều so với người lớn. Điều này có thể do tất cả người lớn có mẫu ECG WPW không triệu chứng là trẻ em đã được sống sót xác định không có bất kỳ triệu chứng nào chứng minh nguy cơ thấp hơn.

Trong khi các nghiên cứu quần thể đã tiến hành các tính toán khác nhau của tỷ lệ loạn nhịp nguy hiểm đến tính mạng đưa đến tử vong đột ngột trong WPW, đa số các nghiên cứu đã thông báo tỷ lệ rất thấp SCD(bảng 1)

Tuổi tính bằng năm

SCD: đột tử tim. SVT: nhịp nhanh trên thất. VF: rung thất.

* Các bệnh nhân hỗn hợp có triệu chứng và không triệu chứng

3. Phân tầng nguy cơ trong WPW

Trong thực hành hiện nay mục đích (intent) của phân tầng nguy cơ ở các trẻ em với mẫu WPW không triệu chứng là nhận biết cá thể nào có nguy cơ cho loạn nhịp tim nguy hiểm.Hình thái đơn giản nhất, phân tầng nguy cơ sử dụng test không thâm nhập (nghĩa là Holter hoặc test gắng sức ) để xác địch mất thực sự kích thích sớm ở tần số tim sinh l‎y. Không có khả năng chứng minh rõ ràng mất tuyệt đối biểu hiện kích thích sớm biện hộ cho xem xét testing EP thâm nhập nhiều hơn. Trạng thái bắt buộc quyết định đối với VF là sự hiện diện của thời kỳ trơ chức năng đường xuôi ngắn (short antigrade functional refractory period) của đường dẫn phụ khi được phản ảnh trong khoảng RR ngắn nhất giữa các nhịp kích thích sớm trong AF. Testing EP thâm nhập cần bao gồm đo khoảng RR kích thích sớm ngắn nhất trong quá trình AF được tạo ra thêm vào khẳng định số và vị trí các đường phụ, các đặc tính dẫn truyền xuôi và ngược của đường phụ và nút AV, và cả thời gian trơ có hiệu quả củ đường phụ (accessory pathway effective refractory period: APERP) và của thất trong chiều dài chu kỳ phức tạp.

4. Lượng giá không thâm nhập các bệnh nhân WPW

Điện tâm đồ (ECG)

Sự có mặt các đường dẫn truyền phụ phức tạp đã được nhận biết như là một yếu tố nguy cơ cho rung thất. Sự xuất hiện hình thái học kích thích sớm khác biệt trên ECG hoặc trên ECG lưu động cung cấp nguy cơ cao hơn và các cá thể ít khả năng là không có triệu chứng. Khoảng 5 – 10% các bệnh nhân có mấu WPW có thẻ thể hiện nhịp nhanh kích thích sơm, cho phép hiểu đặc tính dẫn truyền xuôi của đường phụ.

Một loạt các ECG liên tục có thể được sử dụng để tầm soát các AF cơn, đặc biệt ở các bệnh nhân không có triệu chứng có mẫu WPW có thể không biết rõ loạn nhịp nhĩ ngắn. Sự xuất hiện AF cơn ở các bệnh nhân không có triêu chứng có WPW có thể phụ thuộc tần số của giám sát không thâm nhập. Trong nghiên cứu dự kiến 184 bệnh nhân nhi có mẫu WPW không triệu chứng theo dõi 5 năm, theo dõi Holter năm hai lần để nhận biết cơ AF ở 22 bệnh nhân (12%), cao hơn một cách có ý nghĩa so với phổ nhận định Holter ở các người lớn không có triệu chứng bị WPW.

Các thử bằng thuốc

Mặc dù không được sử dụng phổ biến nữa, các thuốc chẹn kênh sodium đã được sử dụng để xác định đặc tính của đường phụ. Gaita và các cộng sự thông báo trên 65 bệnh nhân có mẫu WPW, 15 trong đó không có triệu chứng. Các người được trải qua nghiên cứu EP, stress testing, và thử thách thuốc bằng procainamide và propafenone. Bloc đường phụ bằng thử thách thuốc đã kết hợp với APERP dài hơn trong EPs. Tuy nhiên, tính đặc trưng của mất đi kích thích sớm sau sử dụng các thuốc bloc sodium được so sánh yếu với các khoảng RR kích thích sớm ngắn nhất trong AF được tạo ra.

Test gắng sức

Mất đi kích thích sớm trong quá trình gắng sức đã được để nghị như là một phương pháp đại diện sự đánh giá thời kỳ trơ của đường phụ. Cách hoạt động của sóng delta trong quá trình gắng sức phụ thuộc vào các ảnh hưởng tương đối của kích thích giao cảm trên sự trơ đường phụ và dẫn truyền nút AV. Dẫn truyền nút AV nhanh hơn ở mức gắng sức cao hơn có thể che lấp kích thích sớm cố định qua đường phụ ở bệnh trái, thậm chí khi các manh mối tinh vi cho WPW được tìm kiếm. Daubert và các cộng sự đã chứng minh rằng chỉ có mất đột ngột và hoàn toàn kích thcíh sớm trong quá trình gắng sức mới khẳng định APERP đường xuôi kéo dài. Trong một nghiên cứu dự kiến chiếm ưu thế ở người lớn, sự dai dẳng của kích thích sớm trong quá trình gắng sức chỉ ra sự nhậy cảm 96% nhưng sự đặc hiệu chri 17% trong dự hoặc SPERRI ở AF ≤ 250 ms hoặc APERP ≤ 250 ms. Giá trị dự báo dương là 40% và dự báo âm là 88%. Đã được ghi nhận, kích thích sớm đã biến mất một cách đột ngột trong gắng sức chỉ 1/24 bệnh nhân có SPERR / ERP ≤ 250 ms, và đây là bệnh nhân có SPERRI ngắn nhất (180ms) trong một loạt bệnh nhân.

5. Lý do căn bản, định nghĩa, các kỹ thuật cho nghiên cứu điện sinh lý can thiệp.

Đối với tư liệu này, EPs sẽ được xác định như “thâm nhập” khi nó được thực hiện sử dụng hoặc catheter trong buồng tim hoặc qua thực quản. Protocols cho cả hai trong buồng tim và qua thực quản đã được mô tả rõ, các đặc tính xuôi của đường dẫn phụ tương quan rất rõ với cả hai phương pháp. Tuy nhiên, tạo nhịp qua thực quản hiệu quả ít hơn cho khả năng để nhận rõ các đường dẫn truyền phụ phức tạp, lượng giá dẫn truyền ngược, và khu vực chính xác của đường phụ, và cẩn thiết đòi hỏi đặt catheter trong buồng tim nếu loại bỏ được thực hiện trng thủ thuật tương tự. Tuy nhiên, hai kỹ thuật này sử dụng phương pháp tương tự để xác định khả năng tạo ra nhịp nhanh lập lại tại nhĩ thất, AF, xác định APERP, dẫn truyền kích thích sớm 1:1 của nhịp tạo nhịp nhĩ, SPERRI trong AF đực tạo ra, và sử dụng Isoproterenol. Isoproterenol gây ra hầu như là như nhau trong việc làm ngắn lại của thời kỳ trơ dẫn xuôi của đường phụ và tăng lên tần số thất trong quá trình tạo nhịp nhĩ và rung nhĩ. Do hiệu quả này và thực sự giá trị của isoproterenol trong phân tầng nguy cơ không được xác định rõ ràng từ nghiên cứu tương lai, bóng dáng nguy cơ được xác định thông thường ở đường giới hạn. AF dai dẳng hoặc nhịp nhanh lập lại nhĩ thất (AV) được xác định như là nhịp nhanh kéo dài hơn 1 phút; tuy nhiên, sự tranh luận còn tồn tại như khoảng thời gian của nhịp nhanh được tạo ra được xem xét là bệnh l‎y, thay đổi giữa 30 s và 5 phút.

6. Phân tầng nguy cơ điện sinh lý của WPW

6.1. Các bệnh nhân có triệu chứng

Trong các nghiên cứu lâm sàng ở các bệnh nhân người lớn WPW, SPERRI ≤ 220 ms – 250 ms trong quá trình rung nhĩ đã được nhận thấy là sự loại bỏ tốt nhât những bệnh nhân đó ở nguy cơ AF. Trên các cơ sở nghiên cứu trẻ em và người lớn hỗn hợp (phạm vi tuổi từ 5 đến 68 tuổi, trung bình 28 tuổi ), APERP là ít hữu ích hơn do nó ít dự báo biến cố nguy hiểm tính mạng (phạm vi 180 – 310 ms) so với SPERRI trong AF là như nhau giữa các bệnh nhân WPW và VF và những bệnh nhân WPW và SVT vào lại nhĩ thất, nhưng không có VF. Ở các bệnh nhân có triệu chứng, sự biểu hiện các đường dẫn truyền phức tạp và các bó nối tắt ở vách có thể là yếu tố nguy cơ riêng rẽ cho sự phát triển VF. Các đường dẫn phụ phức tạp có thể cũng là để xác định sự nhạy cảm đối với sự độc lập của thoái hóa đưa đến VF của AF.

Độ nhạy cảm của SPERRI trong AF là 88% đến 100% cho nhận biết người lớn có triệu chứng ở nguy cơ cho VF nhưng do tỷ lệ thấp của ngừng tim ở các bệnh nhân này, giá trị tiên đoán dương của SPERRI < 220 ms ở người lớn chỉ là 19% – 38%. Giá trị dự báo dương thấp ở người lớn, đặc biệt những người trên 40 tuổi, đã được sử dụng để đưa ra lý lẽ chống lại (to argue against) sự dụng phổ biến EPs thâm nhập để nhận biết quần thể nguy cơ.

Bromberg và các cộng sự đã lượng giá các trẻ em WPW có triệu chứng ≤ 18 tuổi và các bệnh nhân được phân nhóm vòa các bệnh nhân có VF được chứng minh bằng tư liệu, ngất hoặc AF tự phát, SVT vào lại đơn thuần. Tất cả các bệnh nhân có VF hoặc vô tâm thu trên lâm sàng ở các bệnh nhân có AF được tạo ra bằng EPs có SPERRI < 220 ms (độ nhạy cảm 100%) so với SPERRI < 220 ms ở 74% và 35% ở các nhóm khác. Nghiên cứu này gợi ý SPERRI < 220 ms đã mang lại tăng lên 3 lần nguy cơ SCD so sánh với quần thể WPW chung. Paul và cộng sự thực hiện nghiên cứu EPs thâm nhập ở 74 trẻ em WPW có triệu chứng. Tạo ra AF dai dẳng ghi nhận ở 9 / 14 bệnh nhân có ngất nhưng không có bệnh nhân trong số 60 bệnh nhân không có ngất. Tất cả các bệnh nhân ngất và AF có SPERRI ≤ 220 ms (độ nhậy cảm 100%). Trong số 34 bệnh nhân không có ngất nhưng AF tạm thời được tạo ra, 9 bệnh nhân có SPERRI ≤ 220 ms (độ đặc hiệu 74%). Chú ý ngất được quy cho WPW được đảm bảo là thật bởi vì ngất do cường phế vị rất thường gặp và không hiếm là nguyên nhân ngất ở các bệnh nhân này.

Ở trẻ em, APERP như là một biến số đồng nhất trong số giá trị tiên lượng nhỏ cho nguy cơ ngất, AF hoặc SVT và có tương quan ít rõ ràng hơn với VF so với SPERRI trong AF. Trong khi các đặc tính EP của đường phụ có thể thay đổi theo thời gian, trong đó các bệnh nhân có APERP (< 260 ms) kéo dài đáng kể để thay đổi nguy cơ tiềm tàng theo thời gian là hiếm. Cuối cùng, Teo đã thông báo sự hiện diện của các đường dẫn phụ phức tạp cùng chung với (in conjunction with) SPERRI < 250 ms đạt được độ đặc hiệu 92% và giá trị dự báo dương cho các biến cố loạn nhịp trong tương lai ở 22%.

6.2. Các bệnh nhân không triệu chứng

Mục đích của lượng giá EP thâm nhập các bệnh nhân WPW không triệu chứng được chẩn đoán bằng ECG để nhận biết nguy cơ tăng lên cho SCD. Tương quan các triệu chứng với các chỉ số EP đã thay đổi giữa các nghiên cứu. Santinelli và các cộng sự đã quan sát tuổi trẻ hơn, thời gian trơ ngắn hơn của đường phụ, và các đường phụ phức tạp được tương quan với các triệu chứng lâm sàng, trong khi Dubin và các cộng sự xác nhận thời gian trơ ngắn hơn và sự hiện diện của các đường phụ phức tạp không được liên hệ với các triệu chứng lâm sàng. Tương tự, các triệu chứng đã được chỉ ra là tương tự ở các trẻ em WPW và AF có thể được tạo ra và các người không có tình trạng dễ bị tổn thương ở nhĩ.

Khẳng định các nhận định này, Delise và cộng sự so sánh các bệnh nhân người lớn trẻ có mẫu WPW không có triệu chứng và có triệu chứng bằng kích thích nội tâm mạc và quan sát thấy tỷ lệ của AF và SPERI < 250 ms là không khác biệt giữa hai nhóm; tuy nhiên, dẫn truyền ngược của đường phụ có tỷ lệ nhiều hơn một cách có ‎y nghĩa ở các bệnh nhân có triệu chứng (100% đối lại 22%).

Có 3 nghiên cứu về trị liệu WPW và nguy cơ đột tử đã được đưa ra do một nhóm đơn thuần các nhà nghiên cứu ở Milan, Italy. Nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu tương lai của 212 bệnh nhân người lớn bị WPW không có triệu chứng trong đó có 33 bệnh nhân trở nên có triệu chứng qua giai đoạn 5. Các bệnh nhân đó có APERP ngắn hơn giới hạn (246 đối lại 283 ms) và trong quá trình truyền isoproterenol (203 đối lại 225 ms). Phối hợp APERP ngắn và khả năng thúc đẩy SVT đã có giá trị dự báo dương là 47% với dự báo âm là 97% bằng (in regard) các biến cố loạn nhịp tiếp sau (subsequent) (thường nhất, xuất hiện SVT). Có 3 bệnh nhân khởi đầu không có triệu chứng với APERP < 250 ms và SPERRI < 230 ms người đã phát triển tiếp theo VF.

Trong nghiên cứu ở người Milan thứ 2, tư liệu lâm sàng và EP can thiệp đã được lựa chọn từ 184 trẻ em có WPW không triệu chứng có thời gian theo dõi trung bình là 5 năm. So sánh với những người còn lại không có triệu chứng, 51 bệnh nhân sau này trở nên có triệu chứng lâm sàng đã được quan sát đã có các chỉ số EP khác biệt có y nghĩa, bao gồm APERP ≤ 240 ms (89% đối lại 17%), các đường phụ phức tạp (47% đối lại 6,0%) và chu k‎ỳ SVT vào lại AV không thay đổi (84% đối lại 23%). Ba bệnh nhân đã trải qua VF, nhưng tất cả 3 bệnh nhân đã được cứu sống thành công không có hậu quả thần kính. Thú vị thay, tất cả 3 trẻ đã được chứng minh bằng tư liệu AF được kích thích sớm có đáp thất nhanh đã đưa đến thương tổn tạo ra VF ngay trước (1 bệnh nhân) hoặc lúc nhập viện (2 bệnh nhân). Tất cả 3 bệnh nhân có đặc tính đường phụ nguy cơ cao trong EPs khởi đầu (APERP < 220 ms và SPERRI < 200 ms), và tất cả loại bỏ thành công tiếp sau đó. Trong lượng giá APERP xuôi ≤ 240 ms cho đánh giá nguy cơ cho VF có độ nhạy cảm tuyệt vời (100%) và dự báo âm, nhưng độ đặc hiệu thấp (25%) và giá trị dự báo dương trong khảng định vai trò của nó trong nhận biết các bệnh nhân ở nguy cơ thấp cho VF. Quần thể nghiên cứu này là đáng chú ý cho tần số cao của các biến cố lâm sàng lớn so sánh với các nghiên cứu ở quần thể WPW lớn hơn khác ở người lớn.

Trong nghiên cứu lâm sàng tương lai riêng rẽ, 47 trẻ em có mẫu WPW không triệu chứng ở nguy cơ cao cho loạn nhịp (AF có thể bị thúc đẩy hoặc SVT) đã được ngẫu nhiên loại bỏ hoặc theo dõi. Trong suốt 3 năm theo dõi, 7 trẻ em phát triển triệu chứng, 2 có AF đáp ứng thất nhanh. Năm người khác được quan sát có AF im lặng khi theo dõi ECG liên tục và một chế đột ngột, lời nhận xét quan trọng đầy tiêm năng. Các đường dẫn truyền phụ phức tạp đã mang đến nguy cơ cao cho loạn nhịp phát triển. Điều giá trị (worth) được ghi nhận trong mỗi một nghiên cứu này , tần số biến cố nguy hiểm đến tính mạng là cao hơn một cách căn bản so với phân tích gộp theo sau 749 người lớn cho toàn bộ 6726 năm không có bất kỳ ca SCD.

Sử dụng lượng giá thâm nhập đường phụ ở các trẻ em WPW không triệu chứng có kích thích sớm kéo dài cố định vượt qua năm học cơ bản và bộc lộ kích thích sớm cố định ở tần số tim cao hơn, 25% có thể có thời kỳ trơ của đường ngắn thậm chí không thấy nhịp nhanh lặp lại được tạo ra trong quá trình EPs. Sarubbi và cộng sự theo dõi 98 trẻ em có mẫu WPW không triệu chứng qua 4 năm, SVT được tạo ra ở 48% các bệnh nhân ở ngay khởi đầu EPs, nhưng theo dõi chỉ có 5 bệnh nhân được phát triển thành SVT (4SVT, 1AF). Chiều dài vòng tạo nhịp nhĩ tối thiểu với kích thích sớm dai dẳng là ngắn hơn ở trẻ em có trở thành triệu chứng ngay tiếp sau (236 ms) hơn những người không có (276 ms), nhận định này phù hợp với các nghiên cứu người lớn đã được đề cập trước đây. Một bệnh nhân không có triệu chứng trước đó cha mẹ của bệnh nhân này đã từ chối điều trị theo khuyến cáo cho các chỉ số EP xuôi nhanh đã đột tử ở 8 tuổi. Không có khả năng tạo ra SVT đưa đến tiên lượng tốt bất kể đặc tính đường phụ dẫn xuôi.

Để tóm tắt các tư liệu cho giá trị của test EP can thiệp nhận biết nguy cơ ở các bệnh nhân WPW có triệu chứng, độ nhận cảm và giá trị dự báo âm của SPERRI ≤ 250 ms là cao, nhưng giá trị dự báo đặc hiệu và dương lại thấp hơn một cách đáng kể. Hơn nữa, ở trẻ em và người lớn không có triệu chứng, giá trị dự báo đặc hiệu và dương thậm chí thấp hơn do tỷ lệ đột tử tiếp sau là quá thấp (bảng 2). Mặc dù isoproterenol tăng lên một cách rõ ràng độ nhạy cảm cho các biến cố ở các bệnh nhân không có triệu chứng bằng đưa đến nhiều bệnh nhân hơn trong loại nguy cơ cao, nó giảm đi đáng kể độ đặc hiệu của test EP xâm lấn. Các quan sát này áp dụng cho cả người lớn và trẻ em; tuy nhiên, có các tư liệu bệnh sử tự nhiên ít hơn ở trẻ em, và giá trị tiên lượng cứ sự thêm vào của isoproterenol cho phân tầng nguy cơ không được nghiên cứu phù hợp ở bất kỳ nhóm nào.

Bảng 2. Các chỉ số điện sinh lý thâm nhập ở người lớn trẻ và trẻ em không triệu chứng có mẫu WPW.

AF = atrial fibrillation; APERP = accessory pathway effective refractory period; EP = electrophysiology; NPV =negative predictive value; PPV = positive predictive value;

6.3. Các nguy cơ EPs thâm nhập

7. Loại bỏ qua catheter: tần số thành công, nguy cơ và các xem xét khác

Khí được sử dụng lần đầu tiên cho WPW ở nhi khoa năm 1990, loại bỏ bằng năng lượng tần số radio (RFA) đã được xác định khả năng cho điều trị loạn nhịp mà trước đây chỉ với thuốc, loại bỏ bằng dòng một chiều (DC ablation), hoặc ngoại khoa. Ngay nay RFA được chấp nhận rộng rãi như là một trị liệu cho WPW và thường xem xét là trị liệu hàng đầu. Điều này là do tần số thành công cao và tiền sử nguy cơ thấp, đặc biệt khi sử dụng loại bỏ bằng đông lạnh (cryoablation) được bao gồm cho đường phụ vách liên thất và sát động mạch vành nhỏ. Tần số thành công, nguy cơ và các xem xét cách sinh hoạt khác bao gồm các điều trị có khả năng cho các bệnh mạn tính, là các vần đề quan trọng khi quyết định bệnh nhân đặc biệt có tham gia vào trị liệu loại bỏ bằng catheter hay không. Sự hiểu biết hoàn chỉnh của trạng thái hiện nay của trị liệu loại bỏ qua catheter là phê phán khuyến cáo thủ thuật này cho gia đình bệnh nhân nhi có hội chứng WPW không triệu chứng.

7.1. Hiệu quả của loại bỏ qua catheter

Một thời gian ngắn sau thủ thuật RFA đầu tiên, các thành viên của hội điện sinh l‎y nhi khoa đã tính toán đăng k‎y loại bỏ RF nhi. Đăng ky đã cung cấp sự nhìn nhân thấu đáo có valuable giá trị lớn đối với tiến triển của trị liệu catheter ablation và được thúc đẩy đánh giá nghiên cứu tiềm năng của loại bỏ bằng catheter ở nhi khoa (Prospective Assessment of Pediatric Cardiac Ablation study : PAPCA).

Trong nghiên cứu PAPCA tiếp theo, tất cả tần số thành công của nghiên cứu nền được ablation là 95,7%, với tần số thành công 93% cho các đường phụ được biểu hiện. Tất số tât cả tái phát trong 1 năm theo dõi được thông báo trong nghiên cứu tương lai đã là 10,7%, triển vọng hơn tần số đã được thông báo trước kia. Đa số tái phát xuất hiện trong quá trình 2 tháng đầu sau thủ thuật. Tần số tái phát cho các đường phụ biểu hiện là 11,3%, với tần số tái phát thấp nhất cho đường phụ vách trái và bên trái và cao nhất cho bên phải và vách. Các kết quả tương tự của RFA đã được thông báo mới đây (2007) trong quần thể hỗn hợp ngưởi lớn và nhi 508 bệnh nhân có đường phụ. Tần số thành công cấp thời là 94,9% qua tất cả các vị trí (cao nhất ở vách tự do trái, giữa vách, và khi vực thành tự do phải). Các đường phụ trước vách phải được loại bỏ thành công 78,5% trong thời gian. Mặc dù, thành công cấp thời RFA hợp lý qua tất cả các khu vực, dẫn truyền qua đường phụ tái phát được quan sát là 24,2%, 16,7%, 14,3%, 13%, và 5% cho các đường phụ ở thành tự do phải, giữa vách, trước vách, vách sau và thành tự do trái (97%).

Một số nghiên cứu từ các trung tâm nhi khoa riêng biệt đã thông báo tần số thành công cho loại bỏ WPW. Tần số thành công cấp thời 92 đến 100% và tái phát 0 đến 13% đã được thông báo trong các nghiên cứu nhỏ này. Các yếu tố nhận định như là sự bổ xung sự mất đi thành công lâu dài gồm sự hiện diện bệnh tim cấu trúc và có nhiều đường phụ. Các kết quả RFA ở bệnh nhân nhi có WPW chưa từng được phân biệt giữa có triệu chứng và không triệu chứng.

Hậu quả loại bỏ ở trẻ em rất trẻ

SVT do WPW ở trẻ ẵm ngửa có thể thường được điều chỉnh bằng thuốc và xu hướng trở nên it hơn sau vài tháng của đời sống. Tuy nhiên, có tồn tại phân nhóm trẻ trơ với thuốc loạn nhịp, các nền phức tạp (các đường phụ phức tạp và hoặc bệnh tim bẩm sinh), và các triệu chứng nặng có thể có lợi ích từ loại bỏ. Các nghiên cứu tử đăng k‎y đã gợi ‎ý tần số loại bỏ thành công có khả năng tương tự với trẻ lớn hơn, nhưng tần số biến cố nguy hại có thể cao hơn. Blaufox và cộng sự không nhận thấy bất kỳ sự khác biệt có y nghĩa nào giữa bệnh nhân ít hơn hoặc lớn hơn 18 tháng khi phân tích các số liệu đăng k‎ý. Nhưng trải nghiệm còn hạn chế và thay đổi, các chỉ định cho loại bỏ (ablation) có trái ngược nhiều ở trẻ ẵm ngửa và trẻ nhỏ, và các mẫu ECG WPW không triệu chứng thường không được xem xét là chỉ định cho phân tầng nguy cơ hoặc loại bỏ.

7.2. Loại bỏ bằng đông lạnh(Cryoablation)

7.3. Nguy cơ và biến chứng

Các biến cố có hại nặng đã bổ xung vào loại bỏ qua catheter là blốc nhĩ thất (bloc AV), thủng tim, tổn thương động mạch vành và biến cố tắc mạch. Các nghiên cứu đăng ký sớm được thông báo tần số tất cả biến chứng 3.2% sử dụng khái niệm rất giới hạn các biến cố có hại, trong đó được gom lại thành các biến cố lớn và nhỏ. Blốc nhĩ thất độ 2 và 3 xuất hiện ở 0.7% và hình thành các thrombus hoặc biến cố tắc mạch huyết khối xuất hiện ở 0.3%. Nghiên cứu PAPCA thông báo tần số biến chứng 4.0% (trên cơ sở nghiên cứu EP và RFA) và không bao gồm tử vong. Bloc nhánh phải được thông báo là 0.5%, LBBB là 0.1% và hở van tim 0.3%. Hematoma ở vị trí vào của catheter là biến cố chúng nhất (1.4%). Blốc nhĩ thất xuất hiện ở 0.9% bệnh nhân có đường phụ hiện, nhưng chỉ ở bệnh nhân có đường phụ ở vách trái và phải.

Có thể có yếu tố độc lập thời gian xem như là sự phát hiện lâm sàng hẹp động mạch vành sau RFA. Các nghiên cứu trên động vật đã chỉ ra ảnh hưởng động mạch vành cả hai sớm và muộn sau RFA. Thành phần viên của tổ chức tổn thương gây ra do năng lượng RF đã được chỉ ra các lớp xâm lấn của động mạch vành phải, đưa đến hẹp cấp thời khi năng lượng RF được áp dụng đối với mặt vòng ba lá bên động mạch ở lợn. Mưng mủ tiếp theo của tổn thương này có thể gây ra hẹp có ý nghĩa. Tỷ lệ cao nhất của tổn thương mạch vành đã được thông báo ở bệnh nhân có CHD, đặc biết Ebstein bất thường van 3 lá. Một trung tâm thông báo tỷ lệ nhận biét tương lai của tổn thương mạch vành 1,7% (2/117) ở bệnh nhân có tim bình thường cấu trúc và đường phụ sau vách. Các thông báo hẹp động mạch vành đã được nhận biết sau RFA chụp mạch vành. Trừ khi tổn thương động mạch vành được yêu cầu hoạt hóa, nó có thể không được chẩn đoán và không được thông báo. Các trẻ em nhỏ hơn có thể là nguy cơ đặc biệt cho tổn thương động mạch vành, do khoảng cách từ vị trí ablation nội tâm mạc cũng thay đổi ở bệnh nhân trẻ và được sử chữa cho khi vực đường phụ.

Tử vong đã được thông báo như là biến chứng RFA ở trẻ em do thủng tim, chân thương cơ tim, mạch vành hoặc thuyên tắc mạch não và loạn nhịp thất. Tỷ lệ toàn bộ được thông báo trong thủ thuật nghiên cứu lớn (7600 can thiệp) bệnh nhân nhi bằng đăng ký là 0.22%. Tỷ lệ là 0.12% ở trẻ em giữa tuổi 0.1 đến 13,3 tuổi với tim cấu trúc bình thường, bệnh nhân nhỏ hơn, những người nhận được số năng lượng RFA lớn hơn và trải qua can thiệp ở bên trái.

8. Các vấn đề đặc biệt

8.1. WPW và bệnh tim bẩm sinh

Một số nhỏ các tư liệu thâm nhập có khả năng trong WPW và CHD là đầu tiên từ các bệnh nhân có bất thường Ebstein. Đa số các đường phụ ở bệnh này ở bên phải, và nhiều bệnh nhân có nhiều đường. Trong nghiên cứu hồi cứu so sánh các bệnh nhân WPW có hoặc không có bất thương Ebstein , người có bất thường Ebstein có chiều dài vòng vào lại nhĩ thất dài hơn đáng kể (359 ms đối lại 310 ms), nhưng không có sự khác biệt được nhận thấy ở các phức hợp được kích thích sớm ngắn nhất trong quá trình AF (215 đối lại 218ms). Các tư liệu sớm (1998) từ nghiên cứu Đăng k‎ý RFA nhi khoa của 65 bệnh nhân bị bất thường Ebstein trải qua RFA đã thông báo tần số thành công cấp thời và tần số tái phát cho thành tự do phải, vách phải và các khu vực khác là 79%/32%, 89%/29%, và 75%/27%. Các đường phức tạp được quan sát ở 49% các bệnh nhân và tỷ lệ phần trăm tương đối lớn (22%) đã được loại bỏ cho các loạn nhịp nguy hiểm.

Thêm vào các khiếm khuyết tim bẩm sinh cấu trúc, kích thích thất sớm cũng đã được mô tả ở bệnh nhân bệnh cơ tim. Vài gene đột biến đã được kết hợp với kích thích thất sớm, gồm PRKAG2 và AMPK. Đa số các bệnh cơ tim này xuất hiện là phì đại và tiến triển nhưng ngược lại với sự xáo trộn cơ tim truyền thống được nhận thấy trong protein sarcomeric các bất thường cơ tim phì đại, sự phì đại kết hợp với kích thích sớm thất đưa đến thứ phát đối với tích lũy nội tế bào glycogen, như trong trường hợp AMPR, amylopectin. Nó không hoàn toàn rõ ràng kích thích sớm nhận thấy trong đột biến PRKAG2 và AMPK qua trung gian đường phụ hay không, nhưng loạn nhịp thường có và cả gồm rối loạn chứng năng nút xoang, AF, dẫn truyền nút nhĩ thất gia tăng và blốc nhĩ thất. Đột tử được mô tả rõ ở quần thể bệnh nhân này, nhưng tương quan của đột tử với kích thích thất sớm là tương tự không rõ ràng.

8.2. WPW không triệu chứng và rối loạn chú ‎ý – thiếu hụt / tăng động

Các thuốc ADHD làm tăng tần số tim trung bình từ 1 đến 2 nhịp / phút và huyết áp tâm thu 3 đến 4 mm Hg. Mặc dù ‎ý nghĩa thống kê, các liên can lâm sàng của các thay đổi này trong tần số tim và huyết áp là tối thiểu ở phần lớn các bệnh nhân, trong khi sẽ có vài người có các thay đổi lớn hơn có thể cần được quan tâm. Trong nghiên cứu 584 trẻ em trên Adderall XR, không có thay đổi lâm sàng có ý nghĩa trong các chỉ số ECG trung bình được quan sát trong khoảng thời gian nghiên cứu. Xa hơn, ở tất cả các ca có biểu hiện các bất thường, các nhà tim mạch học nhi khoa nhận định đã được cho là vô hại, không có ý nghĩa lâm sàng, hoặc bình thường (145). Mặc dù số các ca thông báo đột tử ở các bệnh nhân nhận được thuốc ADHD và bất thường tim cấu trúc hoặc bệnh sử gia đình có loạn nhịp thất được xác định bằng FDA, không có thông báo đặc biết SCD ở các bệnh nhân WPW nhận được thuốc ADHD.

8.3. WPW và tham gia thể thao

Hội chứng WPW đã giải thích khoảng 1% tử vong trong nghiên cứu dài hạn đột tử ở vận động viên. Tuy nhiên, nó không được biết đây là các cá thể không triệu chứng bằng xác định hay không. Trong khi nhiều trường hợp SCD có WPW có kết hợp với gắng sức tập luyện không làm thay đổi các tính chất điện sinh lý trong WPW. Trên cơ sở Hội nghị Bethesda lần thứ 36, phân tầng nguy cơ với nghiên cứu EP là thích hợp ở các vận động viên không có triệu chứng đăng ký thi đấu thể thảo từ trung bình đến cao. Đây là sự tương phản đối với tuyên bố mạnh mẽ hơn từ ESC, đã chỉ thỉ cho tất cả các vận động viên có WPW phải trải qua đánh giá nguy cơ gồm EPs. Đánh gía khái quát nguy cơ ở các vận động viên này gồm SPERRI < 240 ms trong AF hoặc < 220 ms trong quá trình stress hoặc isoproterenol, sự hiện diện của đa đường dẫn phụ hoặc AF được thúc đẩy dễ dàng. Trong khi loại bó bằng tần số radio qua catheter thường được khuyến cáo ở các vận động viên không triệu chứng có WPW, đối với các cá thể đó từ chối loại bỏ bằng tần số radio, thi đấu thể thao có thể được phép nếu không có yếu tố nguy cơ EP đã nêu trên. Trong khi có sự khác biệt hiện thời giữa các khuyến cáo của ACC và ESC trong điều chỉnh các vận động viên có mẫu ECG WPW không triệu chứng, khám phá kích thích thất sớm ở vị thành niên bất kể trạng thái vận động viên, nên cố gắng đưa đến chuyên viên với các chuyên gia điện sinh l‎ý nhi khoa để khởi đầu tiến trình phân tầng nguy cơ như là chi tiết trong tư liệu này.

9. Các khuyến cáo cho các bệnh nhân trẻ (8-21 tuổi) có mẫu ECG WPW

1. Test gắng sức, khi trẻ đủ lớn để có thể thực hiện, là một phẩn của lượng giá nếu ECG liên tục có biểu hiện kích thích sớm liên tục (class IIA, Mức độ chứng cứ B/C). Ở các bệnh nhân có mất đột ngột và hoàn toàn kích thích sớm ở tần số tim sinh lý, đặc tính của đường phụ có thể hiện nguy cơ thấp hơn cho SD. Ở trẻ em có kích thích sớm khó thấy trên ECG và test gắng sức có thể khó giải thích.

2. Sử dụng phân tấng nguy cơ thâm nhập (đường thực quản hoặc trong buồng tim) để đánh giá khoảng RR kích thích sớm ngắn nhất trong rung nhĩ là phù hợp ở người test không thâm nhập không chứng minh sự mất kích thích sớm đột ngột và hoàn toàn (class IIA, mức độ chứng cứ B/C).

3. Các bệnh nhân trẻ có SPERI ≤ 250 ms trong AF ở nguy cơ cao cho SCD. Các bệnh nhân này phù hợp xem xét loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter ở nhóm này, đưa đến một số lượng các yếu tố nguy cơ thủ thuật trên cơ sở các khu vực giải phẫu của đường phụ(class IIA, mức độ chứng cứ B/C)

5. Các bệnh nhân trẻ ở nguy cơ thấp có thể phát triển tiếp theo triệu chứng tim mạch như ngất hoặc hồi hộp. Các bệnh nhân này sau đó cần được xem xét triệu chứng và có thể thích hợp loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter bất chấp đánh giá trước đó.

6. Các bệnh nhân có mẫu ECG WPW không triệu chứng và bệnh tim cấu trúc ở nguy cơ cho cả hai nhịp nhanh nhĩ và nhịp nhanh lập lại nhĩ thất có thể gây ra huyết động không có triển vọng tốt. Loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter có thể được xem xét bất kể đặc tính xuôi của đường phụ (Class IIB, mức độ chứng cứ C).

7. Các bệnh nhân không triệu chứng có mẫu ECG WPW và rối loạn chức năng thất thứ phất do co bóp không đồng bộ có thể được xem xét loại bỏ bằng năng lượng radio qua catheter, bất kể đặc tính đường xuôi của bó nối tắt (Class IIB, mức độ chứng cứ C)

8. Các bệnh nhân có mẫu ECG WPW không có triệu chứng có thể được kể đơn thuốc ADHD. Khuyến cáo này theo hướng dẫn của AHA nói rõ các thuốc ADHD có thể được sử dụng trong trạng thái này sau khi lượng giá tim và với sự theo dõi theo định kỳ và sự giám sát của các nhà tim mạch học nhi khoa.

*Bệnh nhân không có khả năng thực hiện gắng sức cần thực hiện phân tầng nguy cơ bằng EPs.

*Trước khi test thâm nhập và cha mẹ / giám hộ cần được được hướng dẫn để thảo luân về nguy cơ và lợi ích trước khi nghiên cứu thâm nhập, chỉ các nguy cơ quan sát, và cả các nguy cơ chiến lược thuốc.

Tài liệu tham khảo 1. Wolff LPJ, White PD.Bundle-branch block with short PR interval in healthy young people to paroxysmal tachycardia. Am Heart J 1930;6:685-704. 2. Montoya PT, Brugada P, Smeets J, Talajic M, Della Bella P, Lezaun R, vd Dool A, Wellens HJ, Bayes de Luna A, Oter r, et al. Ventricular fibrillation in the Wolff-Parkinson-White syndrome. Eur Heart J 1991;12:144-150. 3. Timmermans C, Smeets JL, Rodriguez LM, Vrouchos G, van den Dool A, Wellens HJ. Aborted sudden death in the Wolff-Parkinson-White syndrome. Am J Cardiol 1995;76:492-494. 4. Klein GJ, Bashore TM, Sellers TD, Pritchett EL, Smith WM, Gallagher JJ. Ventricular fibrillation in the Wolff-Parkinson-White syndrome. N Engl J Med 1979;301:1080-1085. 5. Friedman RA, Walsh EP, Silka MJ, Calkins H, Stevenson WG, Rhodes LA, Deal BJ, Wolff GS, Demaso DR, Hanisch D, Van Hare GF. NASPE Expert Consensus Conference: Radiofrequency catheter ablation in children with and without congenital heart disease. Report of the writing committee. North American Society of Pacing and Electrophysiology. Pacing Clin Eletrophysiol 2002;25:1000-1017. 6. Zipes DP, Ackerman MJ, Estes NA 3rd, Grant AO, Myerburg RJ, Van Hare G. Task Force 7: arrhythmias. J Am Coll Cardiol 2005;45:1354-1363. 7. Guize L, Soria R, Chaouat JC, Chretien JM, Houe D, Le Heuzey JY. [Preva-lence and course of Wolff-Parkinson-White syndrome in a population of 138,048 subjects]. Ann Med Interne (Paris) 1985;136:474-478. 8. Hiss RG, Lamb LE. Electrocardiogarphic findings in 122,043 individuals. Circulation 1962;25:947-961. 9. Swiderski J, Lees MH, Nadas AS. The Wolff-Parkinson-White syndrome in infancy and childhood. Br Heart J 1962;24:561-580. 10. Averill KH, Fosmoe RJ, Lamb LE, Electrocardiogarphic findings in 67,375 asymptomatic subjects. IV. Wolff-Parkinson-White syndrome. Am J Cardiol 1960;6:108-129. 11. Davidoff R, Schamroth CL, Myburgh DP. The Wolff-Parkinson-White pattern in health aircrew. Aviat Space Environ Med 1981;52:554-558. 12. Hejtmancik MR, Herrmann GR. The electrocardiogarphic syndrome of short P-R interval and broad QRS complexes; a clinical study of 80 cases. Am Heart J 1957;54:708-721. 13. Manning GW. An electrocardiogarphic study of 17,000 fit, young Royal Canadian Air Force aircrew applicants. Am J Cardiol 1960;6:70-75. 14. Vidaillet HJ Jr, Pressley JC, Henke E, Harrell FE Jr, German LD. Familial occurrence of accessory atrioventricular pathways (preexcitaiton syndrome) N Engl J Med 1987;317:65-69. 15. Deal BJ, Keane JF, Gillette PC, Garson A Jr. Wolff-Parkinson-White syndrome and supraventricular tachycardia during infancy: management and follow-up. J Am Coll Cardiol 1985;5:130-135. 16. Goudevenos JA, Katsouras CS, Graekas G, Argiri O, Giogiakas V, Sideris DA. Ventricular pre-excitation in the general population: a study on the mode of presentation and clinical course. Heart 2000;83:29-34. 17. Munger TM, Packer DL, Hammill SC, Feldman BJ, Bailey KR, Ballard DJ, Holmes DR Jr, Gersh BJ. A population study of the natural history of Wolff-Parkinson-White syndrome in Olmsted County, Minnesota, 1953-1989. Cir-culation 1993;87:866-873. 18. Becquart J, Vaksmann G, Becquart V, Dupuis C. [Prognosis of Wolff-Parkinson-White syndrome in infants. Apropos of 31 cases]. Arch Mal Coeur Vaiss 1988;81:695-700. 19. Soria R, Guize L, Chretien JM, Le Heuzey JY, Lavergne T, Desnos M, Hagege A, Guerre Y. [The natural history of 270 cases of Wolff-Parkinson-White syndrome in a survey of the general population]. Arch Mal Coeur Vaiss 1989;82:331-336. 20. Perry JC, Garson A Jr. Supraventricular tachycardia due to Wolff-Parkinson-White syndrome in children: early disappearance and late recurrence. J Am Coll Cardiol 1990;16:1215-1220. 21. Kolditz DP, Wijffels MC, Blom NA, van der Laarse A, Markwald RR, Schalij MJ, Gittenberger-de Groot AC. Persistence of functional atrioventricular accessory pathways in postseptated embryonic avian hearts: implications for morphogenesis and functional maturation of the cardiac conduction system. Circulation 2007;115:17-26. 22. Murphy RT, Mogensen J, McGarry K, Bahl A, Evans A, Osman E, Syrris P, Gorman G, Farrell M, Holton JL, Hanna MG, Hughes S, Elliott PM, Macrae CA, McKenna WJ. Adenosine monophosphate-activated protein kinase disease mimicks hypertrophic cardiomyopathy and Wolff-Parkinson-White syndrome: natural history. J Am Coll Cardiol 2005;45:922-930. 23. Ghosh S, Avari JN, Rhee EK, Woodard PK, Rudy Y. Hypertrophic cardiomyopathy with preexcitation: insights from noninvasive electrocardiographic imaging (ECGI) and catheter mapping. J Cardiovasc Electrophysiol 2008;19:1215-1217. 24. Arad M, Maron BJ, Gorham JM, Johnson WH Jr, Saul JP, Perez-Atayde AR, Spirito P, Wright GB, Kanter RJ, Seidman CE, Seidman JG. Glycogen storage diseases presenting as hypertrophic cardiomyopathy. N Engl J Med 2005;352:362-372. 25. Maron BJ, Roberts WC, Arad M, Haas TS, Spirito P, Wright GB, Almquist AK, Baffa JM, Saul JP, Ho CY, Seidman J, Seidman CE. Clinical outcome and phenotypic expression in LAMP2 cardiomyopathy. JAMA 2009;301:1253-1259. 26. Benson DW Jr, Dunnigan A, Benditt DG. Follow-up evaluation of infant paroxysmal atrial tachycardia: transesophageal study. Circulation 1987;75:542-549. 27. Fan W, Peter CT, Gang ES, Mandel W. Age-related changes in the clinical and electrophysiologic characteristics of patients with Wolff-Parkinson-White syndrome: comparative study between young and elderly patients. Am Heart J 1991;122:741-747. 28. Klein GJ; Yee R, Sharma AD. Longitudinal electrophysiologic assessment of asymptomatic patients with the Wolff-Parkinson-White electrocardiographic pattern. N Engl J Med 1989;320:1229-1233. 29. Santinelli V, Radinovic A, Manguso F, Vicedomini G, Gulletta S, Paglino G, Mazzone P, Ciconte G, Sacchi S, Sala S, Pappone C. The natural history of asymptomatic ventricular pre-excitation a long-term prospective follow up study of 184 asymptomatic children. J Am Coll Cardiol 2009;53:275-280. 30. Sarubbi B, Scognamiglio G, Limongelli G, Mercurio B, Pacileo G, Pisacane C, Russo MG, Calabro R. Asymptomatic ventricular pre-excitation in children and adolescents: a 15 year follow up study. Heart 2003;89:215-217. 31. Emmel M, Balaji S, Sreeram N. Ventricular preexcitation associated with dilated cardiomyopathy: a causal relationship? Cardiol Young 2004;14:594-599. 32. Tomaske M, Janousek J, Razek V, Gebauer RA, Tomek V, Hindricks G, Knirsch W, Bauersfeld U. Adverse effects of Wolff-Parkinson-White syndrome with right septal or posteroseptal accessory pathways on cardiac function. Europace 2008;10:181-189. 33. Dreifus LS, Haiat R, Watanabe Y, Arriaga J, Reitman N. Ventricular fibrillation. A possible mechanism of sudden death in patients and Wolff-Parkinson-White syndrome. Circulation 1971;43:520-527. 34. Topaz O, Perin E, Cox M, Mallon SM, Castellanos A, Myerburg RJ. Young adult survivors of sudden cardiac arrest: analysis of invasive evaluation of 22 subjects. Am Heart J 1989;118:281-287. 35. Russel MW DP, Dick MD. Incidence of catastrophic events associated with the Wolff-Parkinson-White syndrome in young patients: diagnostic and therapeutic dilemma. Circulation 1993;1993:484(a). 36. Deal BJ DM, Beerman L, Silka M, Walsh EP, Klitzner T, Kugler J. Cardiac arrest in young patients with Wolff-Parkinson-White syndrome Pacing Clin Electrophysiol 1995;18:815(a). 37. Bromberg BI, Lindsay BD, Cain ME, Cox JL. Impact of clinical history and electrophysiologic characterization of accessory pathways on management strategies to reduce sudden death among children with Wolff-Parkinson-White syndrome. J Am Coll Cardiol 1996;27:690-695. 38. Pappone C, Santinelli V, Rosanio S, Vicedomini G, Nardi S, Pappone A, Tortoriello V, Manguso F, Mazzone P, Gulletta S, Oreto G, Alfieri O. Usefulness of invasive electrophysiologic testing to stratify the risk of arrhythmic events in asymptomatic patients with Wolff-Parkinson-White pattern: results from a large prospective long-term follow up study. J Am Coll Cardiol 2003;41:239-244. 39. Fukatani M, Tanigawa M, Mori M, Konoe A, Kadena M, Shimizu A, Hashiba K. Prediction of a fatal atrial fibrillation in patients with asymptomatic Wolff-Parkinson-White pattern. Jpn Circ J 1990;54:1331-1339. 40. Pietersen AH, Andersen ED, Sandoe E. Atrial fibrillation in the Wolff-Parkinson-White syndrome. Am J Cardiol 1992;70:38A-43A. 41. Brembilla-Perrot B, Moejezi RV, Zinzius PY, Jarmouni S, Schwartz J, Beurrier D, Sellal JM, Nossier I, Muresan L, Andronache M, Moisei R, Selton O, Louis P, de la Chaise AT. Missing diagnosis of preexcitation syndrome on ECG Clinical and electrophysiological significance. Int J Cardiol 2011;[Epub ahead of print]. Int J Cardiol 2011 June 23.

Tính Phổ Biến, Biểu Hiện Lâm Sàng Và Chẩn Đoán Hội Chứng Wolff

Mở đầu

Trong bài viết trước, chúng tôi đã trình bầy về giải phẫu đường dẫn truyền phụ (AP) và cách xác định vị trí một cách định hướng bằng điện tâm đồ (ECG) bề mặt. để tiện theo dõi chúng tôi nhắc lại sơ đồ đường phụ như hình dưới (hình 1).

TS. Phạm Hữu Văn

Hình 1. Sơ đồ các đường phụ.

Chủ đề này sẽ đưa ra định nghĩa, tính phổ biến và triệu chứng lâm sàng của hội chứng WPW. Các lựa chọn điều trị cho bệnh nhân bị loạn nhịp nhanh và hội chứng WPW sẽ được đưa ra ở các chuyên đề tiếp theo.

Nhắc lại một số khái niệm

Dẫn truyền AV bình thường so với dẫn truyền phụ nhĩ thất (AV)

Ở tim bình thường, tâm nhĩ và tâm thất là cách điện, với dẫn truyền xung điện từ tâm nhĩ đến tâm thất thường được dẫn truyền thông qua nút nhĩ thất (AV) và hệ thống His- Purkinje. Bệnh nhân có hội chứng kích thích sớm có đường thêm vào, được gọi là đường dẫn truyền phụ (AP), kết nối trực tiếp tâm nhĩ và tâm thất, do đó cho phép hoạt động điện bỏ qua nút nhĩ thất (bảng 1). Tổ chức trong các đường phụ, là bẩm sinh ở nguồn gốc và là kết quả của sự suy yếu tái hấp thu của hợp bào cơ tim ở xơ sợi vòng của các van nhĩ thất trong quá trình phát triển của thai nhi, thường các xung điện được dẫn truyền nhanh hơn so với nút nhĩ thất, kết quả là khoảng thời gian PR ngắn hơn được nhìn thấy trên điện tâm đồ bề mặt.

Bảng 1. Các thuật ngữ và liên kết giải phẫu của các đường phụ

* Các đường tắt này tạo ra sóng delta và hội chứng Wolff-Parkinson-White.

* Các đường này gây ra hội chứng Lown-Ganong-Levine và dẫn truyên nút AV gia tăng.

Người ta ước tính hầu hết các đường phụ (từ 60 đến 75%) có khả năng dẫn hai chiều (anterograde và retrograde) giữa tâm nhĩ và tâm thất. Tuy nhiên, một số đường phụ (17-37%) chỉ có khả năng dẫn một cách ngược từ tthất sang nhĩ. Khi đường phụ dẫn truyền theo hướng ngược đơn độc (còn gọi là đường phụ “ẩn”), chúng không tạo ra sóng delta và các mẫu WPW trên điện tâm đồ bề mặt nhưng vẫn có khả năng hỗ trợ nhịp tim nhanh vào lại. Dẫn ngược có thể xảy ra sau các nhắt bóp thạo nhịp hoặc thất sớm, có thể hình thành một phần ngược ủa nhịp nhanh vào lại nhĩ thất orthodromic (AVRT). Phần lớn các đường phụ ẩn ở bên trái.

Ít gặp hơn (5 đến 27%), đường phụ chỉ có khả năng dẫn truyền theo đường xuôi (anterograde); trong trường hợp này, có thể tạo thành nhịp nhanh vào lại nhĩ thất (AVRT) thể antidromic. Các cơ chế chịu trách nhiệm về dẫn theo một hướng dọc theo đường phụ (chỉ xuôi hoặc ngược) vẫn chưa xác định.

Ở một số bệnh nhân, các đường phụ có vẻ như ẩn dấu có thể có khả năng dẫn truyền xuôi trong một số tình huống:

● Nếu dẫn truyền nút AV được gia tăng và / hoặc đường phụ ở bên trái (ví dụ, từ xa đến nút xoang), dẫn có thể tiến hành qua hệ thống nút AV bó His Purkinje bình thường nhanh hơn so với AP. Trong những trường hợp này, dẫn xuôi qua đường phụ xảy ra, nhưng không phải là biểu hiện trên điện tâm đồ bề mặt. Blốc tạm thời dẫn truyền qua nút AV bằng adenosine có thể bộc lộ đường “ẩn” này.

● Ở một số bệnh nhân có đường phụ ở thành tự do thất trái, nhịp tâm nhĩ trái qua xoang vành, tại một khu vực gần với đường phụ, có thể là cần thiết để đưa đến dẫn truyền qua đường xuôi và kích thích sớm được bộc lộ.

● Một số đường phụ (ở bất kỳ khu vực nào) có thể bị hạn chế khả năng dẫn truyền xuôi do thời kỳ trơ kéo dài và chỉ trở nên biểu hiện ở tần số tim chậm hơn. Mẫu WPW đối lại với hội chứng WPW

Hai thuật ngữ, được phân biệt bằng có hay không có rối loạn nhịp, đã được sử dụng để mô tả những bệnh nhân có đường phụ (AP):

● Mẫu Wolff -Parkinson-White (WPW) được áp dụng cho bệnh nhân có biểu hiện kích thích sớm trên điện tâm đồ trong trường hợp không có triệu chứng loạn nhịp tim.

Hình 2. Hình ảnh điện tâm đồ của mẫu WPW và hội chứng WPW.

Các đường phụ phức tạp biểu hiện ở khoảng 13% bệnh nhân tìm đến bác sỹ điện sinh lý do hội chứng WPW. Xác suất được tăng lên ở những người có tiền sử gia đình có kích thích sớm.

Định khu đường phụ

Các nghiên cứu điện sinh lý và lập bản đồ đã chỉ ra đường phụ nhĩ thất có thể ở bất cứ nơi nào dọc theo vòng AV (rãnh) hoặc vách ngăn. Vị trí thường gặp nhất là trái bên (50%), vách sau (30%), vách trước bên phải (10%) và bên phải (10%). Nhiều nghiên cứu đã cố gắng tim tương quan các vị trí của các đường phụ với các mô hình điện tâm đồ . Tuy nhiên, sự xuất hiện trên điện tâm đồ kích hoạt phụ thuộc vào mức độ kích thích sớm và phản ứng tổng hợp, kết quả, đường tương tự có thể không phải luôn luôn tạo ra các mô hình điện tâm đồ giống nhau. Hơn nữa, lên đến 13% của các cá nhân với kích thích sớm có nhiều hơn một đường phụ.

Các bất thường tim kết hợp

Mối liên hệ giữa sa van hai lá và đường nối tắt bên trái cũng đã được báo cáo. Tuy nhiên, sự kết hợp này chỉ đơn giản có thể phản ánh sự cùng tồn tại ngẫu nhiên của hai điều kiện tương đối phổ biến.

Tình phổi biến – Tỷ lệ

Tỷ lệ mẫu WPW

Sự phổ biến của mẫu WPW trên điện tâm đồ bề mặt ước tính khoảng 0,13-0,25% trong dân số chung. Tỷ lệ xuất hiện cao hơn (lên đến 0,55%) trong số người thân đầu tiên người có mẫu WPW, cho thấy thành phần gia đình.

Các mẫu WPW trên điện tâm đồ có thể lúc có lúc không và thậm chí có thể biến mất vĩnh viễn theo thời gian. Trong một nghiên cứu thuần tập, 22% những người biểu hiện mẫu WPW sau cùng trên điện tâm đồ ban đầu đã có tầm soát bình thường, và 40% các bệnh nhân mẫu WPW biến mất trên điện tâm đồ tiếp theo. Kết quả tương tự đã được ghi nhận trong nhóm nhỏ khác.

Tỷ lệ hội chứng WPW

Sự phổ biến của hội chứng WPW là thấp hơn đáng kể hơn so với các mẫu WPW đơn thuần. Giá trị chính xác đã thay đổi trong các nghiên cứu khác nhau, tùy thuộc một phần vào thời gian theo dõi:

● Khi xem xét 22.500 nhân viên hàng không lành mạnh, mẫu WPW trên điện tâm đồ đã được nhìn thấy ở 0,25%, và chỉ có 1,8% của những người này có bằng chứng rối loạn nhịp tim.

● Trong một báo cáo của 228 đối tượng với mẫu WPW bằng ECG người được theo dõi trong 22 năm, tỷ lệ tổng thể của rối loạn nhịp tim dẫn đến hội chứng WPW là 1% mỗi năm.

● Trong một nghiên cứu của 432.166 trẻ em, độ tuổi từ 6 đến 20 tuổi, tỷ lệ hội chứng WPW là 0,07%.

Các loại loạn nhịp trên thất xảy ra trong hội chứng WPW. Trên 80% bệnh nhân bị rối loạn nhịp có nhịp nhanh vào lại nhĩ thất, từ 15 đến 30% bị rung nhĩ, và 5% cuồng nhĩ. Tỷ lệ đột tử do tim (SCD ) là khá thấp. Theo một phân tích gộp 20 nghiên cứu (1869 bệnh nhân) ước tính nguy cơ ở 0,13% mỗi năm. Hầu hết các báo cáo đã cho thấy không có trường hợp tử vong đột ngột ở những bệnh nhân không có triệu chứng. Tuy nhiên, một báo cáo ghi nhận 3 trường hợp ở 162 bệnh nhân không có triệu chứng ban đầu sau 5 năm ; cả ba bệnh nhân phát triển rung nhĩ có triệu chứng trước khi có cơn đột tử.

Như đã nói ở trên, mẫu WPW có thể biến mất ở những bệnh nhân không có triệu chứng; một khoảng thời gian tương tự có thể xảy ra ở bệnh nhân có hội chứng WPW. Trong một nghiên cứu thuần tập trong tổng số 113 bệnh nhân có hội chứng WPW hoặc nhịp tim nhanh vào lại nút nhĩ thất người được theo dõi trong 9 năm, 23% bị mất dẫn truyền xuôi và kich thích thất sớm, 8% bị mất dẫn ngược trong đường phụ và 10% đã biến mất loạn nhịp tim.

Tỷ lệ đường phụ ẩn

Tỷ lệ thực sự của đường phụ ẩn không được biết. Kể từ sự hiện diện của một đường phụ ẩn chỉ xác định trong một rối loạn nhịp tim (ví dụ, nhịp tim nhanh vào lại nhĩ thất [AVRT]), một đường như vậy có thể không được xác định trong lúc nhịp xoang bằng cách sử dụng một điện tâm đồ đơn thuần. Như vậy, chỉ những bệnh nhân có triệu chứng rối loạn nhịp đã trải qua nghiên cứu điện sinh lý chẩn đoán khi các đường phụ ẩn được chẩn đoán. Trong số những bệnh nhân có nhịp nhanh trên thất có triệu chứng biểu hiện cho triệt phá qua catheter, sự phổ biến của đường phụ ẩn giấu khoảng 15%.

WPW gia đình

Trong số những bệnh nhân có hội chứng WPW, 3,4% người thân thế hệ thứ nhất có hội chứng kích thích sớm. Hình thái WPW gia đình hiếm khi đã được báo cáo và thường được di truyền như là một đặc điểm nổi trội nhiễm sắc thể thường. Hai nghiên cứu của ba gia đình với các đối tượng bị ảnh hưởng, người đã có khởi đầu sớm bệnh dẫn truyền và thường có cơn rung nhĩ được lập bản đồ gen chịu trách nhiệm của hội chứng WPW là nhiễm sắc thể 7q34 – Q36. Các đột biến Missense đã được xác định trong gene PRKAG2, mã hóa tiểu đơn vị điều hòa gamma -2 của AMP – activated protein kinase.

Một hình thức di truyền của WPW kết hợp với bệnh cơ tim phì đại gia đình đã được mô tả và có thể là do một trong hai đột biến ở gen PRKAG2, như WPW gia đình đơn độc, hoặc trong gen LAMP2, có trách nhiệm đối với bệnh dự trữ glycogen IIb (bệnh Danon).

BIỂU HIỆN LÂM SÀNG

Như đã nói ở trên, đa số bệnh nhân với các mẫu WPW trên điện tâm đồ ( ECG ) vẫn không có triệu chứng. Tuy nhiên, một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân với mẫu WPW phát triển loạn nhịp (ví dụ như rung nhĩ với đáp ứng thất nhanh) như là một phần của hội chứng WPW. Hầu hết các bệnh nhân phát triển rối loạn nhịp sẽ biểu hiện trên một các triệu chứng sau:

● Đánh trống ngực

● Đầu óc quay cuồng và / hoặc chóng mặt

● Ngất hoặc gần ngất

● Đau ngực

● Đột tử do tim

Rối loạn nhịp kết hợp với WPW

Tim nhanh kèm với hội chứng WPW có thể được phân loại thành những người trong đó đường phụ cần thiết cho khởi đầu và duy trì nhịp tim nhanh và những người trong đó các hoạt động của bó nối tắt như một “người ngoài cuộc, cung cấp một đường dẫn từ các vị trí giải phẫu của nguồn gốc nhịp nhanh với các vùng khác của tim (hình 3).

Hình 3. Các vị trí vào lại trong nhịp nhanh trên thất

Nhịp tim nhanh đòi hỏi phải có một đường phụ khởi đầu và duy trì

Nhịp nhanh vào lại nhĩ thất (hoặc lặp lại) (AVRT) là một nhịp nhanh vào lại với vòng được xác định bằng giải phẫu gồm 2 đường khác biệt, hệ thống dẫn truyền AV bình thường và một đường phụ AV, liên kết bằng các tổ chức đầu gần thông thường (tâm nhĩ) và đầu xa (tâm thất). Nếu có đủ sự khác biệt về thời gian dẫn và trơ tồn tại giữa các hệ thống dẫn truyền thông thường và bó tắt, một xung sớm có nguồn gốc nhĩ, bộ nối, thất được định thời gian phù hợp có thể khởi phát vào lại.

Hai hình thức chủ yếu của loại rối loạn nhịp trong hội chứng WPW là AVRT orthodromic và antidromic. Chiều rộng của QRS thường có thể phân biệt giữa các cơn rối loạn nhịp. Chúng tôi sẽ trình bầy riêng một chuyên đề về vần đề rối loạn nhịp này.

Nhịp tim nhanh không đòi hỏi phải có một đường phụ khởi đầu và bảo trì

Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất – Nhịp nhanh vào lại nút nhĩ thất (AVNRT) có thể sử dụng đường phụ ngoại cuộc để dẫn truyền xung giữa nhĩ đến thất (hình 4). Khi AVNRT xảy ra trong hội chứng WPW, các rối loạn nhịp tim không thể phân biệt với AVRT hoặc antidromic hoặc orthodromic mà không cần đến nghiên cứu điện sinh lý.

Hình 4. Sơ đồ vòng vào lại có sử dụng đường phụ và không sử dụng đường phụ

Nhĩ rung

Hình 5. Rung nhĩ nhanh xẩy ra ở một bệnh nhân có hội chứng WPW.

12 chuyển đạo ECG ở bệnh nhân có hội chứng Wolff-Parkinson-White cho thấy rung nhĩ có đáp ứng thất nhanh trên 300 ck/ph và các phức bộ thất dẫn truyên lệch hướng hoàn toàn. Kết quả này do truyền xung nhĩ thất nhanh qua đường phụ nhĩ thất dẫn truyền nhanh.

Phát hiện đặc trưng trên điện tâm đồ ở bệnh nhân RN và đường phụ bao gồm nhịp bất quy tắc không đều với hình thái QRS thay đổi từ nhịp này sang nhịp khác và có thể kết hợp với dẫn truyền AV nhanh. Một tần số thất dai dẳng lớn hơn 180-200 ck / phút có thể tạo ra các khoảng RR “giả đều” “pseudoregularized” khi ECG được ghi ở tốc độ tiêu chuẩn (25 mm mỗi giây). Khi xung nhĩ được truyền đi dọc theo đường phụ trong AF, tần số thất có thể vượt quá 300 nhịp mỗi phút và có thể biến thành rung thất.

Các hình thái QRS và tốc độ dẫn truyền xung trong AF dọc theo đường phụ phụ thuộc vào một số yếu tố, gồm:

● Thời gian trơ của đường phụ càng ngắn, các xung dẫn xuối càng nhanh, do kích thích sớm nhiều hơn, phức hợp QRS rộng hơn. Bệnh nhân với thời gian trơ rất ngắn và AF nhanh biểu hiện nhóm nguy cơ lớn nhất cho thóa hóa thành rung thất.

● Mức độ hệ thống nút AV / His – Purkinje cạnh tranh với hệ thống đường phụ để kích hoạt tâm thất.

● Kích hoạt đường phụ ngược dòng.

AF thường bắt đầu bằng nhịp nhanh vào lại nhĩ thất ( AVRT ) ở người có WPW, một báo cáo cho thấy có đến 35% các cơn AF được dẫn trước bằng AVRT. Tuy nhiên, cơ chế AVRT thúc dẩy AF chưa được hiểu rõ, nhưng tăng kéo dài do tăng áp lực tâm nhĩ và dẫn truyền rối loạn trong cơ tim tâm nhĩ do tính trơ giảm có thể đóng một vai trò.

Cuồng nhĩ

Cuồng nhĩ là do vòng vào lại trong phạm vị nhĩ và do đó tồn tại độc lập của đường phụ. Cuồng nhĩ có thể, giống như rung nhĩ, dẫn truyền xuôi qua đường phụ gây ra nhịp nhanh được kích thích sớm (hình 6). Tùy thuộc vào thời gian trơ khác nhau của đường phụ AV bình thường và bệnh lý, cuồng nhĩ có khả năng dẫn truyền 1: 1 đến tâm thất trong quá trình nhịp nhanh được kích thích sớm, làm cho rối loạn nhịp tim khó phân biệt với nhịp nhanh thất. Khi cuồng nhĩ được truyền xuôi dọc theo đường phụ, tần số thất có thể vượt quá 300 nhịp mỗi phút và có thể biến thành rung thất.

Hình 6. Điện tâm đồ cuồng nhĩ trong hội chứng WPW.

Cuồng nhĩ được tạo ra trong tâm nhĩ phải và các xung nhĩ trong trường hợp này được dẫn truyền xuống tâm thất bằng đường phụ. Dẫn truyền là 1: 1 với tần số thất 300 nhịp / phút. Các phức hợp QRS rộng hay khác thường và có hình thái blốc nhanh bó và độ trục lệch trái, cho thấy sự hiện diện của đường phụ nhĩ bó (Mahaim).

Nhịp nhanh thất

Cùng tồn tại nhịp nhanh thất là không phổ biến do những bệnh nhân có hội chứng WPW ít khi bị bệnh tim cấu trúc.

Rung thất và đột tử

Trong hầu hết các trường hợp, rung tâm thất (VF) xảy ra ở bệnh nhân có hội chứng WPW kết quả từ phản ứng thất nhanh trong rung nhĩ (AF) mà đã kéo dài và cuối cùng trở thành VF. Mặc dù tần suất AF với dẫn AV nhanh chóng thông qua đường phụ thoái hóa thành VF là không rõ, VF là biểu hiện ban đầu của WPW dường như là khá hiếm, chỉ xảy ra 8 trong số 690 bệnh nhân WPW trong nghiên cứu thuần tập duy nhất. Ngoài ra, có thể yên tâm cần lưu ý tỷ lệ tử vong đột ngột ở bệnh nhân có hội chứng WPW là khá thấp.

Bệnh nhân có mẫu WPW có nguy cơ gia tăng VF bao gồm những người có tiền sử AVRT và / hoặc AF, những người có thời gian trơ đường xuôi rất ngắn (< 250 ms) của đường phụ được ghi nhận trong nghiên cứu điện sinh lý và những với khoảng RR ngắn (< 250 ms) trong cơn rung nhĩ tự phát hoặc tạo ra. Ngược lại, kích thích sớm từng lúc, đặc trưng bằng mất liên tục các sóng delta, cho thấy đường tắt có một thời gian trơ dài, ít khả năng phát triển VF hơn. Tuy nhiên, kích thích sớm và loạn nhịp đã không được chẩn đoán trước đó lên đến 25% các cá nhân có VF hoặc tử vong đột ngột.

CHẨN ĐOÁN

Chẩn đoán mẫu WPW thường chỉ đòi hỏi điện tâm đồ bề mặt (ECG ), thường được thúc đẩy cơ bản bằng xác định ngẫu nhiên trên ECG thu được do một chỉ định lâm sàng khác. Xác định một khoảng PR ngắn và sóng delta thường là đủ để xác định chẩn đoán mẫu WPW. Trong một số trường hợp hiếm, nghiên cứu điện sinh lý xâm lấn có thể hữu ích trong việc xác định chẩn đoán đường phụ hoặc phát hiện bệnh nhân có khoảng thời gian trơ có hiệu quả ngắn (< 250ms), ví dụ như trong các vận động viên cạnh tranh.

ĐÁNH GIÁ

Các nhận định điện tâm đồ (ECG)

Các dấu hiệu chức năng đường phụ AV trong quá trình nhịp xoang là kích thích sớm trong đó quá trình khử cực của tất cả hoặc một phần của tâm thất xảy ra thông qua đường phụ (ví dụ, bằng cách kích hoạt cơ tim trực tiếp) là tách biệt với hệ thống dẫn AV bình thường và xảy ra sớm hơn dự kiến ​​sau khi khử cực tâm nhĩ. Điều này dẫn đến rút ngắn khoảng PR, một sóng delta, và QRS giãn rộng.

Mẫu WPW trên điện tâm đồ

Các mẫu điện tâm đồ cổ điển của kích thích sớm trong nhịp xoang được đặc trưng bằng một sự kết hợp giữa dẫn truyền qua đường phụ và nút nhĩ thất bình thường / – hệ thống His – Purkinje. Các mẫu điện tâm đồ kích thích sớm kinh điển trong nhịp xoang ở những người có một trong hai mẫu hoặc hội chứng WPW WPW (hình 1) có hai đặc trưng chính:

● Khoảng PR ngắn (< 0,12 giây) do dẫn AV nhanh chóng thông qua đường phụ và bỏ qua của nút nhĩ thất.

● Các phức hợp QRS bao gồm kết hợp giữa hoạt hóa sớm và trực tiếp cơ tim thất gây ra do kích thích sớm và hoạt hóa tâm thất do dẫn truyền qua nút nhĩ thất thu được từ truyền qua nút nhĩ thất và hệ thống dẫn truyền dưới nút đến tâm thất. Trong khi bắt đầu sớm hơn dự kiến​​, phần khởi đầu của kích hoạt tâm thất bị chậm lại và phần khử cực nhanh của phức hợp QRS bị líu díu do dẫn truyền sợi cơ đến sợi cơ chậm. Điều này được gọi là sóng delta. Dẫn truyền qua đường phụ càng nhanh, số các cơ tim bị khử cực qua đường phụ càng lớn, dẫn đến một làn sóng delta nổi bật hơn hoặc rộng hơn và QRS rộng hơn.

Một số đường phụ không dẫn truyền xuôi đến thất nhưng lại có khả năng dẫn truyền ngược từ thất lên nhĩ. Vì không có dẫn truyền xuôi qua đường phụ, kết quả không có điện tâm đồ đặc trưng của mẫu WPW. Việc chẩn đoán ở bệnh nhân có một đường phụ ẩn dấu chỉ có thể được thực hiện sau ngoại vị thất hoặc nhịp tâm thất hoặc trong quá trình tham dò điện sinh lý.

Kích thích sớm và sóng delta có thể không rõ ràng trong nhịp xoang ở bệnh nhân WPW có đường phụ bên trái khi đường xuôi cho dẫn truyền. Trong tình huống này, thời gian xung nhĩ để đạt được qua của đường phụ dài hơn thời gian để đạt nút nhĩ thất, do đó giảm thiểu kích thích sớm.

Gắng sức hiếm gây ra mất đột ngột kích thích sớm khi tăng tần số xoang. Điều này là tin tưởng nhưng không phải là chỉ số tuyệt đối nói lên đường phụ không có khả năng dẫn đến AF với đáp ứng nhanh. Thường xuyên hơn, kích thích sớm trở nên không biểu hiện do tăng trương lực giao cảm và giảm trương lực phế vị gia tăng dẫn truyền nút AV.

Mẫu WPW và giải thích điện tâm đồ cho các rối loạn khác

Chuỗi bất thường của kích hoạt xảy ra với dẫn truyền điện thông qua đường phụ làm phát sinh một chuỗi bất thường của quá trình tái cực, dẫn đến những bất thường sóng ST- T. Các vectơ hoặc hướng của các thay đổi sóng ST-T thứ phát thường hướng ngược với các vectors của sóng delta và phức hợp QRS. Như một kết quả của chuỗi hoạt động bất thường, các bất thường ảnh hưởng đến tâm thất, chẳng hạn như thiếu máu cục bộ, nhồi máu, phì đại và viêm màng ngoài tim, có thể thường không được chẩn đoán chắc chắn trong sự hiện diện mẫu WPW.

Test điện sinh lý

Các chỉ định cho nghiên cứu điện sinh lý (EPS) ở bệnh nhân có hội chứng WPW đã biết hoặc nghi ngờ vẫn còn đang phát triển. Trong hầu hết các trường hợp, EPS là không cần thiết cho việc chẩn đoán hội chứng WPW hay mẫu, nhưng EPS đôi khi được kết hợp với lập bản đồ và triệt phái đường phụ qua catheter cho cả hai mục đích chẩn đoán và điều trị trong cùng một lần. Người ta tiến hành EPS trong các tình huống khi chẩn đoán chưa chắc chắn dựa trên điện tâm đồ bề mặt, cho các mục đích phân tầng nguy cơ khi nguy cơ cao sẽ làm thay đổi cách tiếp cận với điều trị và là một phần của một thủ tục điều trị triệt phá qua catheter. Vì vậy, đối với bệnh nhân có triệu chứng với bệnh sử có một hoặc nhiều biến cố nhịp tim nhanh và kích thích sớm biểu hiện trên điện tâm đồ của họ, EPS với triệt phá ngày nay thường lựa chọn sớm trong quá trình điều trị như là một điều trị có khả năng dứt khoát cho tình trạng này.

EPS xâm lấn cũng được chỉ định ở những bệnh nhân chắc chắn không có triệu chứng với mẫu WPW khi có một bệnh tim cùng tồn tại. Điều kiện như bệnh cơ tim, bệnh động mạch vành, bệnh van tim đáng kể và các khuyết tật tim bẩm sinh sẽ làm giảm khả năng chịu bất kỳ nhịp bất thường và làm tăng nguy cơ cho bệnh nhân. Lập bản đồ và triệt phá thường sẽ được thực hiện trong tất cả các trường hợp như vậy để đơn giản hóa việc điều trị.

● Để xác định chẩn đoán, nếu nghi ngờ tồn tại.

● Để xác định đường phụ có khả năng hỗ trợ nhịp tim nhanh vào lại.

● Để đo lường các đặc tính dẫn truyền của đường phụ trong một nỗ lực để ước tính nguy cơ của bệnh nhân cho dẫn truyền nhanh nếu có cơn rung nhĩ phát triển trong tương lai.

Chẩn đoán phân biệt

Chẩn đoán phân biệt các kết quả điện tâm đồ – Các điện tâm đồ ( ECG ) phát hiện ở những người có mẫu WPW có thể tương tự như điện tâm đồ phát hiện thấy trong các bệnh lý tim mạch khác:

● Nhồi máu cơ tim – Một sóng delta âm (biểu hiện như một làn sóng Q) có thể bắt chước một mô hình nhồi máu cơ tim. Ngược lại, một sóng delta dương có thể che giấu sự hiện diện của một nhồi máu cơ tim trước đó.

● Các nhắt bóp thất sớm hoặc nhịp thất bị động – WPW từng lúc có thể bị nhầm với các nhát bóp thất sớm thường xuyên. Các mẫu WPW thỉnh thoảng nhìn thấy trên các nhắt bóp thay đổi và có thể gợi ý thất nhịp đôi (bigeminy). Nếu mẫu WPW tồn tại trong vài nhắt bóp, nhịp có thể bị chẩn đoán nhầm nhịp thất bị động gia tăng.

Mẫu WPW luân phiên và bình thường đôi khi có thể gợi ý luân phiên điện học.

● Blốc nhánh bó – Khoảng thời gian QRS bằng hoặc lớn hơn 0,12s do kích thích sớm (tức sóng delta). Các nhắt bóp được kích thích sớm đôi khi nhầm với blốc nhanh bó trái và phải như là một kết quả. Tuy nhiên, phần cuối cùng của QRS thường là bình thường, do dẫn truyền bình thường thông qua nút nhĩ thất và kích hoạt thông qua hệ thống Purkinje. Điều này trái ngược với các khiếm khuyết dẫn truyền trong thất như blốc nhánh bó phải hoặc trái, trong đó sự chậm trễ dẫn truyền xảy ra trong cả hai phần đầu hoặc cuối của QRS.

● Một số bệnh nhân bị bệnh cơ tim và một số bệnh tim bẩm sinh (ví dụ như, tâm thất độc nhất) có thể giãn tâm nhĩ kết hợp với kích hoạt thất bất thường có thể dẫn đến mẫu “kích thích sớm giả.” Một số trường hợp cơ tim phì đại có thể bắt chước mẫu WPW là PR thường là ngắn và QRS mở rộng do phì đại.

Chẩn đoán phân biệt nhịp tim nhanh trên thất với đáp ứng thất rất nhanh

Chẩn đoán phân biệt nhịp nhanh trên thất (SVT ) với đáp ứng thất nhanh là khá rộng sẽ được trình bày như một chuyên đề.

Tuy nhiên, chẩn đoán phân biệt SVT với đáp ứng thất rất nhanh (lớn hơn 180-200 nhịp mỗi phút ở người lớn, lớn hơn 200 nhịp đập mỗi phút ở trẻ em) có phần hẹp hơn. Do đặc tính dẫn truyền và tính trơ của nút nhĩ thất và do vì tần số nội tại của hầu hết các type SVT (ví dụ, nhịp tim nhanh xoang, nhịp nhanh vào lại nút AV, nhịp tim nhanh xoang không phù hợp) là < 200 nhịp / phút, SVT đi qua nút AV theo hướng xuôi sẽ hiếm khi đạt được nhịp tim lớn hơn 180-200 nhịp mỗi phút. Một SVT không phụ thuộc vào nút nhĩ thất, hoặc một với tần số nội tại nhanh hơn đáng kể, tuy nhiên, có thể đạt tới nhịp tim nhanh hơn nhiều. Thí dụ như:

● Rung nhĩ có dẫn đường phụ

● Cuồng nhĩ có dẫn đường phụ

● Nhịp nhanh vào lại nhĩ thất ( AVRT )

Phân tầng nguy cơ các bệnh nhân có mẫu WPW không có triệu chứng

Cơ chế đột tử do tim (SCD) ở bệnh nhân có hội chứng WPW là rung tâm thất (VF) , thường xảy ra trong cơn rung nhĩ trong đó có dẫn truyền thường xuyên xuống tâm thất, dẫn đến một phản ứng tâm thất quá nhanh chóng gây thoái hóa thành VF. Xác định bệnh nhân không có triệu chứng có nguy cơ lớn nhất đối với VF sẽ cung cấp một lý do cho điều trị tích cực hơn (ví dụ, triệt phá qua catheter).

Có bằng chứng mâu thuẫn khi kết quả dự đoán sự phát triển của các triệu chứng và / hoặc SCD. Một số kết quả nghiên cứu đã được đề xuất để dự đoán một khả năng cao hơn các triệu chứng bao gồm:

● Tuổi trẻ

● Nam giới

● AVRT có thể thúc đẩy hoặc AF trong quá trình EPs

● Nhiều đường phụ

● Đường phụ có thời gian trơ ngắn

Thời gian trơ là thời gian cần thiết sau khi một xung được dẫn truyền qua đường phụ (hoặc bất kỳ tổ chức) để “thiết lập lại” và có thể dẫn truyền xung động tiếp theo. Đặc điểm này thường xác định mức độ thường xuyên một đường phụ có thể dẫn truyền vào tâm thất.

Phân tầng nguy cơ các bệnh nhân có mẫu WPW không có triệu chứng có thể được thực hiện thông qua nghiên cứu điện sinh lý không xâm lấn hoặc xâm lấn (EP). ● Đánh giá không xâm lấn

Mặc dù thời gian trơ của đường phụ thường được đo trong nghiên cứu điện sinh lý, bệnh nhân có đường phụ có một thời gian trơ dài thường có thể được xác định không xâm lấn. Mất liên tục kích thích sớm (được phát hiện bằng mất sóng delta trên ECG) cho thấy đường phụ có một khoảng thời gian trơ dài và sẽ không thể dẫn truyền thường xuyên trong quá trình AF đủ để thúc đẩy rung thất. Kích thích sớm liên tục hoặc mất kích thích sớm có thể được nhìn thấy trong các trạng thái sau đây:

* ECG lúc nghỉ

* Nhịp tim tăng lên khi gắng sức

* Sau khi tiêm tĩnh mạch một chẹn kênh natri, chẳng hạn như procainamide.

Một tiếp cận được gợi ý ở các bệnh nhân không có triệu chứng là để thực hiện các nghiên cứu không xâm lấn (ví dụ, test gắng sức hoặc test chịu đựng procainamide) để xác định những người có nguy cơ thấp, sẽ không yêu cầu đánh giá hoặc điều trị thêm. Bệnh nhân không có những phát hiện này có nguy cơ thấp, đặc biệt là những người dưới độ tuổi 35 đến 40, sau đó có thể xem xét tiếp tục phân tầng nguy cơ và điều trị với nghiên cứu điện sinh lý xâm lấn. Quyết định sẽ được tiến hành dựa trên các giá trị, nghề nghiệp, và mức độ hoạt động của bệnh nhân.

● Nghiên cứu điện sinh lý xâm lấn

Tóm lại, phân tầng nguy cơ bằng EP nhận biết có hiệu quả các bệnh nhân có khả năng cao phát triển triệu chứng và điều trị các bệnh nhân có nguy cơ cao này bằng triệt phá làm giảm biến có loạn nhịp. Tuy nhiên, loạn nhịp tim đe dọa tính mạng rất hiếm trong trường hợp không triệt phá và các biến chứng nghiêm trọng được phát triển ở 2% bệnh nhân trải qua phân tầng nguy cơ. Vì vậy, nó chưa biết được liệu phân tầng nguy cơ ban đầu với nghiên cứu EPs đưa đến có thể giảm tử suất và bệnh suất.

Kết luận

● Hội chứng Wolff -Parkinson-White (WPW) là một hội chứng tim nhanh không thường xuyên ở bệnh nhân có khoảng PR ngắn và QRS rộng trên điện tâm đồ (ECG). Hội chứng WPW gây ra từ một đường phụ kết nối trực tiếp tâm nhĩ và tâm thất và bỏ qua nút nhĩ thất.

● Hầu hết các đường phụ có khả năng dẫn xuôi (hoặc dẫn xuôi đơn thuần hoặc dẫn hai chiều) từ tâm nhĩ đến tâm thất. Tuy nhiên, một số đường phụ chỉ dẫn truyền ngược từ thất lên nhĩ. Do đó không có dẫn xuôi qua đường phụ, mẫu WPW đặc trưng là không có và được xem xét là “ẩn”.

● Đường phụ có thể được ở bất cứ nơi nào dọc theo vòng AV (rãnh) hoặc vách. Vị trí thường gặp nhất là bên trái (50%), vách sau (10%).

● Sự phổ biến của mẫu WPW trên điện tâm đồ bề mặt ước tính khoảng 0,13-0,25% trong dân số chung. Các mẫu WPW trên điện tâm đồ có thể từng lúc, liên tục và thậm chí có thể biến mất vĩnh viễn theo thời gian, tùy thuộc vào tính chất của đường phụ. Sự phổ biến của hội chứng WPW (mẫu WPW cộng với rối loạn nhịp nhanh) là thấp hơn đáng kể hơn so với các mẫu WPW đơn độc, có lẽ thấp 2% bệnh nhân với các mẫu WPW trên điện tâm đồ bề mặt.

● Các mẫu điện tâm đồ cổ điển của kích thích sớm có nhịp xoang được đặc trưng bằng một sự kết hợp giữa dẫn qua đường phụ và nút nhĩ thất bình thường / hệ thống His – Purkinje, kết quả là đặc điểm điện tâm đồ sau đây:

* Khoảng PR ngắn ( ít hơn 0,12 giây) do dẫn AV nhanh chóng thông qua đường phụ và bỏ qua của nút nhĩ thất.

* Phần đầu tiên của kích hoạt tâm thất là làm chậm lại và nhanh đột ngột của QRS líu ríu do dẫn truyền từ sợi cơ đến sợi cơ; điều này gọi là sóng delta.

* Các QRS giãn rộng và bao gồm kết hợp giữa kích hoạt thất sớm gây ra với hoạt hóa thất chậm hơn do dẫn truyền qua nút AV và hệ dẫn truyền dưới nút đến thất.

● Phần lớn bệnh nhân với các mẫu WPW trên điện tâm đồ ( ECG ) vẫn không có triệu chứng, mặc dù một tỷ lệ nhỏ bệnh nhân có mẫu WPW phát triển loạn nhịp tim như là một phần của hội chứng WPW. Hầu hết các bệnh nhân bị rối loạn nhịp sẽ biểu hiện với đánh trống ngực, có ngất hoặc đột tử do tim xảy ra ít hơn.

● Nhịp nhanh kèm với hội chứng WPW có thể được phân loại thành những người trong đó đường phụ cần thiết để bắt đầu và duy trì nhịp tim nhanh và những người trong đó các các đường tắt biểu hiện như “người ngoài cuộc”, cung cấp một đường dẫn từ vị trí giải phẫu nguồn gốc của nhịp nhanh với các vùng khác của trái tim:

* Nhịp nhanh vào lại nhĩ thất (hoặc lắp lại) (AVRT) là một nhịp tim nhanh vào lại với một mạch giải phẫu được xác định bao gồm hai con đường riêng biệt, hệ thống dẫn AV bình thường và đường phụ AV, liên kết bằng tổ chức gần thông thường (tâm nhĩ) và tổ chức xa (các tâm thất). Hai hình thức chính của AVRT là orthodromic và antidromic, xác định bởi hướng dẫn truyền thông qua nút nhĩ thất và đường phụ.

* Rung nhĩ (AF) xảy ra ở 10 đến 30% những người có hội chứng WPW, cao hơn một chút so với dự kiến cho tỷ lệ thấp của các bệnh tim thực thể cùng tồn tại. Khi xung nhĩ được truyền đi dọc theo đường phụ trong AF, tần số thất có thể vượt quá 300 nhịp mỗi phút và có thể biến thành rung tâm thất (VF).

* Trong hầu hết các trường hợp, VF xảy ra ở bệnh nhân có hội chứng WPW kết quả từ phản ứng thất nhanh và kéo dài trong AF và cuối cùng trở thành VF. Mặc dù tần suất AF với dẫn AV nhanh chóng thông qua một đường phụ thoái hóa vào VF là không rõ, tỷ lệ tử vong đột ngột ở bệnh nhân có hội chứng WPW là khá thấp.

● Chẩn đoán mẫu WPW có thể gần như luôn luôn được thực hiện bằng cách xem xét trên điện tâm đồ bề mặt. Ngoài ra, trong một số trường hợp hiếm hơn trong nghiên cứu điện sinh xâm lấn có thể hữu ích trong việc xác định đường phụ. Hội chứng WPW được chẩn đoán sau sự phát triển rối loạn nhịp tim ở bệnh nhân có từ trước mẫu WPW trên điện tâm đồ.

● Các chỉ định cho nghiên cứu điện sinh lý (EPS) ở bệnh nhân có hội chứng WPW đã biết hoặc nghi ngờ vẫn còn đang phát triển. Trong hầu hết các trường hợp, EPS là không cần thiết để chẩn đoán mẫu hay hội chứng WPW, nhưng EPS đôi khi được kết hợp với lập bản đồ và triệt phá đường phụ qua catheter cho cả hai mục đích chẩn đoán và điều trị trong cùng một lần. Người tai tiến hành EPS trong các tình huống khi chẩn đoán chắc chắn dựa trên điện tâm đồ bề mặt, cho các mục đích phân tầng nguy cơ khi nguy cơ cao sẽ làm thay đổi cách tiếp cận với điều trị, và là một phần của thủ thuật triệt phái qua catheter.

● Các nhận định điện tâm đồ (ECG) ở những người có mẫu WPW có thể tương tự như các nhận định điện tâm đồ trong các bệnh lý tim mạch khác, kể cả nhồi máu cơ tim trước, các nhắt bóp thất sớm, nhịp thất bị động và blốc nhánh.

Tài liệu tham khảo

1. Zachariah JP, Walsh EP, Triedman JK, et al. Multiple accessory pathways in the young: the impact of structural heart disease. Am Heart J 2013; 165:87. Vidaillet HJ Jr, Pressley JC, Henke E, et al. Familial occurrence of accessory atrioventricular pathways (preexcitation syndrome). N Engl J Med 1987; 317:65. 2. Epstein AE, Kirklin JK, Holman WL, et al. Intermediate septal accessory pathways: electrocardiographic characteristics, electrophysiologic observations and their surgical implications. J Am Coll Cardiol 1991; 17:1570. 3. Pediatric and Congenital Electrophysiology Society (PACES), Heart Rhythm Society (HRS), American College of Cardiology Foundation (ACCF), et al. PACES/HRS expert consensus statement on the management of the asymptomatic young patient with a Wolff-Parkinson-White (WPW, ventricular preexcitation) electrocardiographic pattern: developed in partnership between the Pediatric and Congenital Electrophysiology Society (PACES) and the Heart Rhythm Society (HRS). Endorsed by the governing bodies of PACES, HRS, the American College of Cardiology Foundation (ACCF), the American Heart Association (AHA), the American Academy of Pediatrics (AAP), and the Canadian Heart Rhythm Society (CHRS). Heart Rhythm 2012; 9:1006. 4. Josephson ME. Preexcitation syndromes. In: Clinical Cardiac Electrophysiology, 4th, Lippincot Williams & Wilkins, Philadelphia 2008. p.339. 5. SMITH RF. THE WOLFF-PARKINSON-WHITE SYNDROME AS AN AVIATION RISK. Circulation 1964; 29:672. 6. Fitzsimmons PJ, McWhirter PD, Peterson DW, Kruyer WB. The natural history of Wolff-Parkinson-White syndrome in 228 military aviators: a long-term follow-up of 22 years. Am Heart J 2001; 142:530. 7. Chiu SN, Wang JK, Wu MH, et al. Cardiac conduction disturbance detected in a pediatric population. J Pediatr 2008; 152:85. 8. Obeyesekere MN, Leong-Sit P, Massel D, et al. Risk of arrhythmia and sudden death in patients with asymptomatic preexcitation: a meta-analysis. Circulation 2012; 125:2308. 9. Leitch JW, Klein GJ, Yee R, Murdock C. Prognostic value of electrophysiology testing in asymptomatic patients with Wolff-Parkinson-White pattern. Circulation 1990; 82:1718. 10. Todd DM, Klein GJ, Krahn AD, et al. Asymptomatic Wolff-Parkinson-White syndrome: is it time to revisit guidelines? J Am Coll Cardiol 2003; 41:245. 11. Pappone C, Santinelli V, Rosanio S, et al. Usefulness of invasive electrophysiologic testing to stratify the risk of arrhythmic events in asymptomatic patients with Wolff-Parkinson-White pattern: results from a large prospective long-term follow-up study. J Am Coll Cardiol 2003; 41:239. 12 Farshidi A, Josephson ME, Horowitz LN. Electrophysiologic characteristics of concealed bypass tracts: clinical and electrocardiographic correlates. Am J Cardiol 1978; 41:1052. 12. Gollob MH, Green MS, Tang AS, et al. Identification of a gene responsible for familial Wolff-Parkinson-White syndrome. N Engl J Med 2001; 344:1823. 13. Gollob MH, Seger JJ, Gollob TN, et al. Novel PRKAG2 mutation responsible for the genetic syndrome of ventricular preexcitation and conduction system disease with childhood onset and absence of cardiac hypertrophy. Circulation 2001; 104:3030. 14. Campbell RW, Smith RA, Gallagher JJ, et al. Atrial fibrillation in the preexcitation syndrome. Am J Cardiol 1977; 40:514. 15. Sharma AD, Klein GJ, Guiraudon GM, Milstein S. Atrial fibrillation in patients with Wolff-Parkinson-White syndrome: incidence after surgical ablation of the accessory pathway. Circulation 1985; 72:161. 16. Wellens HJ, Durrer D. Wolff-Parkinson-White syndrome and atrial fibrillation. Relation between refractory period of accessory pathway and ventricular rate during atrial fibrillation. Am J Cardiol 1974; 34:777.