Top 6 # Hội Chứng West Ở Trẻ Sơ Sinh Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Cẩn Thận Với Hội Chứng Xám Ở Trẻ Sơ Sinh 2022

Hội chứng xám ở trẻ sơ sinh là một thuật ngữ khá lạ đối với nhiều phụ huynh. Đây là một căn bệnh nguy hiểm mà nguyên nhân gây ra đa phần là do sự bất cẩn của cha mẹ. Vì vậy, việc tìm hiểu thông tin xung quanh căn bệnh này là cách đơn giản nhất mà bạn có thể làm để bảo vệ bé.

Bé cưng chào đời khỏe mạnh là điều mà tất cả các bà mẹ đều mong muốn. Đó là lý do tại sao bạn cần phải chú ý chăm sóc bản thân trong suốt quá trình mang thai. Đừng tự ý dùng bất cứ loại thuốc nào trong thời gian này bởi một số loại thuốc có thể gây dị tật bẩm sinh hoặc các biến chứng khác về sức khỏe, chẳng hạn như hội chứng xám ở trẻ sơ sinh.

Hội chứng xám ở trẻ sơ sinh

Hội chứng xám ở trẻ sơ sinh là một biến chứng sức khỏe có khả năng gây tử vong do mẹ hoặc bé dùng kháng sinh chloramphenicol quá liều. Cơ thể của bé không thể loại bỏ hết loại thuốc này nên có thể tích tụ trong máu, gây trụy tim. Tỷ lệ tử vong của hội chứng xám ở trẻ sơ sinh là khoảng 40%.

Hội chứng xám ở trẻ sơ sinh còn có tên gọi khác là nhiễm độc chloramphenicol ở trẻ sơ sinh. Hội chứng này thường xuất hiện ngay sau khi bé chào đời và tỷ lệ mắc phải là như nhau ở cả bé trai và bé gái.

Chloramphenicol là thuốc gì?

Chloramphenicol là một loại thuốc kháng sinh được sử dụng để điều trị các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn như viêm màng não. Hiện nay, do có nhiều loại thuốc mới và do việc dùng thuốc có nguy cơ mắc phải hội chứng xám ở trẻ sơ sinh nên xu hướng dùng kháng sinh này đã giảm xuống. Loại thuốc này còn được cho là có hại cho tủy xương.

Nguyên nhân gây ra hội chứng xám ở trẻ sơ sinh

Sử dụng chloramphenicol quá liều là nguyên nhân chính gây ra hội chứng này. Trẻ sơ sinh không thể bài tiết một lượng lớn chloramphenicol. Do đó, hợp chất này sẽ tích tụ trong máu, gây tử vong. Nếu phụ nữ mang thai hoặc phụ nữ đang cho con bú dùng chloramphenicol, thuốc có thể truyền sang cho bé.

Những bé nào có nguy cơ gặp phải hội chứng xám ở trẻ sơ sinh?

Những bé được cho dùng cloramphenicol trong ba ngày đầu sau sinh mà không theo dõi nồng độ thuốc trong máu có thể có nguy cơ mắc bệnh này. Trẻ sinh non, trẻ nhẹ cân cũng có nguy cơ cao mắc phải bệnh này. Ngoài ra, những bà mẹ đã từng uống thuốc này trong thời gian mang thai thì bé cưng trong bụng cũng có nguy cơ cao mắc phải hội chứng này.

Cho bé đi khám sức khỏe toàn diện và tìm hiểu về các loại thuốc mà bạn đang cho bé dùng là cách đơn giản nhất để chẩn đoán hội chứng xám ở trẻ sơ sinh. Ngoài ra, việc đo nồng độ chloramphenicol trong máu thường xuyên cũng là cách giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh.

Dấu hiệu cho thấy bé mắc phải hội chứng xám ở trẻ sơ sinh

Các triệu chứng của hội chứng này có thể xuất hiện từ 2 – 9 ngày sau khi điều trị:

Nôn mửa

Hạ huyết áp

Thân nhiệt thấp

Môi và da hơi xanh

Bụng bị sưng

Phân có màu xanh lá cây

Nhịp tim bất thường

Khó thở và không chịu bú

Biến chứng có thể xảy ra

Nếu hội chứng xám ở trẻ sơ sinh không được phát hiện và điều trị kịp thời, nó có thể dẫn đến các biến chứng như:

Các vấn đề về tuần hoàn máu có thể dẫn đến các bệnh về tim mạch, gây tử vong

Tủy xương bị tổn thương có thể khiến cơ thể ngừng sản xuất tiểu cầu và các tế bào máu mới, dẫn đến chảy máu và nhiễm trùng

Rối loạn hoặc nhiễm trùng thứ phát có thể khiến hội chứng này trở nên trầm trọng hơn, đặc biệt là ở những bé sinh non.

Điều trị hội chứng xám ở trẻ sơ sinh

Điều trị sớm là cách tốt nhất để vượt qua căn bệnh này. Bước đầu tiên mà bạn phải làm là ngưng sử dụng thuốc. Nếu bạn dùng chloramphenicol để điều trị thì phải ngưng cho bé bú. Khi được chuyển đến bệnh viện, bác sĩ có thể cho bé:

Truyền thay máu: Với phương pháp này, một phần máu của bé sẽ được loại bỏ và thay thế bằng máu hoặc huyết tương được hiến tặng.

Chạy thận nhân tạo: Với phương pháp này, độc tố sẽ được loại bỏ, nồng độ kali và natri cũng sẽ được giữ cân bằng để duy trì huyết áp ổn định cho bé.

Ngăn ngừa hội chứng xám ở trẻ sơ sinh

Tránh cho bé uống chloramphenicol và không sử dụng loại thuốc này khi mang thai hoặc cho con bú là cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh này. Hãy hỏi bác sĩ về những loại thuốc thay thế nếu bác sĩ kê toa cho bạn thuốc chloramphenicol.

Mặc dù thuốc chloramphenicol có thể gây nguy hiểm nhưng nếu bạn dùng nó dưới sự giám sát của bác sĩ thì sẽ không gây ra hội chứng xám ở trẻ sơ sinh. Trong trường hợp này, bạn sẽ được xét nghiệm máu thường xuyên để đảm bảo rằng thuốc không bị dư thừa trong máu.

Động Kinh Hội Chứng West

Động kinh hội chứng West hay còn gọi là chứng co thắt cơ ở trẻ em (infantile spasms) là một loại bệnh động kinh có nhiều điểm đặc biệt về độ tuổi khởi phát, triệu chứng mà trẻ gặp phải, hình ảnh điện não đồ (EEG). Bệnh thường gây ra nhiều ảnh hưởng tới sự phát triển thể chất và tâm thần của trẻ nếu không kiểm soát tốt. Hội chứng west lần đầu tiên được phát hiện năm 1841, khi chúng tôi mô tả các triệu chứng xảy ra ở cậu con trai 4 tháng tuổi của ông.

Triệu chứng dạng động kinh hội chứng West

Cứ 10 trẻ mắc hội chứng West thì có tới 9 trẻ khởi phát trong năm đầu đời, thường là từ 3 đến 8 tháng tuổi. Trong giai đoạn khởi phát, các cơn co giật thường ngắn, đơn lẻ và không xảy ra thường xuyên. Vì lẽ đó, đa số trẻ mắc chứng bệnh này thường bị chẩn đoán muộn.

Triệu chứng điển hình của hội chứng West là trẻ đột ngột uốn cong người về phía trước do các cơ bị co thắt lại, hai tay bắt chéo lại trước ngực, hai chân co đầu gối lên trên. Trong một số trường hợp, hai tay duỗi thẳng và khép bắt chéo (được gọi là co thắt ở tư thế duỗi). Sau giai đoạn này, các cơ lại được giãn ra nhanh chóng, trẻ trở về tư thế bình thường. Các triệu chứng, hội chứng West thường ảnh hưởng đối xứng cả hai bên cơ thể. Các cơn co thắt không làm trẻ đau, nhưng trong và sau cơn trẻ có thể khóc do các động tác khiến chúng bị giật mình. Chính vì vậy, các triệu chứng của động kinh thể West cũng dễ nhần lẫn với đau bụng.

Một trẻ mắc phải động kinh thể west

Mỗi cơn co thắt thường rất ngắn, chỉ khoảng 1 – 2 giây, sau đó tạm dừng trong vài giây rồi lại tiếp tục một cơn khác. Nếu như lúc khởi phát, cơn co thắt thường rời rạc thì đến khi bệnh nặng hơn, cơn co thắt lại “kéo đến” hàng loạt.

Trẻ em bị hội chứng West thường cáu kỉnh, chậm phát triển về tâm thần và vận động. Ngoài ra, trẻ có thể có biểu hiện thờ ơ, không đáp ứng với các kích thích về giác quan. Những ảnh hưởng này chỉ có thể được cải thiện cho tới khi các cơn co thắt được kiểm soát.

Chẩn đoán hội chứng West

Co thắt gấp ở trẻ sơ sinh được chẩn đoán dựa trên triệu chứng co thắt điển hình và hình ảnh điện não đồ (EEG).

Ở trẻ bị hội chứng West, điện não cho thấy hình ảnh rất hỗn loạn rất đặc trưng, được gọi là hypsarrhythmia. Mặc dù hội chứng này có biểu hiện rõ rệt qua EEG nhưng trong một số trường hợp, EEG bất thường chỉ được nhìn thấy trong khi trẻ ngủ (đa số có thể nhìn thấy khi trẻ tỉnh giấc).

Bên cạnh điện não đồ, một số xét nghiệm khác cũng được chỉ định để chẩn đoán hội chứng West, bao gồm: xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu, quét não, chụp cộng hưởng từ não, xét nghiệm dịch tủy sống. Có rất nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến co thắt gấp ở trẻ sơ sinh, tuy nhiên, chỉ 7 -8 trong 10 trường hợp tìm được nguyên nhân cụ thể.

Phương pháp điều trị động kinh hội chứng west

Hội chứng west cần điều trị càng sớm càng tốt

Hội chứng co thắt gấp ở trẻ sơ sinh là dạng động kinh rất đặc biệt và tương đối khó kiểm soát. Phương pháp chính được sử dụng để điều trị hội chứng West là dùng thuốc corticosteroid hoặc vigabatrin (Sabril). Ngoài ra, một số loại thuốc khác cũng có thể giúp kiểm soát cơn co thắt trong hội chứng West, bao gồm:

– Nitrazepam và sodium valproate (Epilim, Depakine)

– Một số loại steroid, chẳng hạn như: prednisolone (thuốc uống), hydrocortisone (thuốc uống hoặc tiêm) hoặc tetracosactide (thuốc tiêm bắp). Steroid cần được sử dụng một cách thận trọng bởi có thể gây ra nhiều tác dụng phụ.

Chế độ ăn kiêng ketogenic cũng đã được chứng minh có hiệu quả trong việc kiểm soát các cơn co thắt gấp ở trẻ sơ sinh. Cùng với đó một số thảo dược có tác dụng an thần, ổn định hệ thần kinh như Câu đằng, An tức hương… cũng sẽ giúp cơ thể kiểm soát các cơn co thắt hiệu quả hơn.

Một số trẻ em mắc hội chứng West đáp ứng rất tốt với thuốc điều trị nên có thể dễ dàng kiểm soát bệnh. Trong khi đó, có những trẻ phải sống chung với hội chứng này hoặc tiếp tục phát triển sang các thể động kinh khác. Hầu hết trẻ em mắc hội chứng co thắt sơ sinh gặp khó khăn trong học tập và phát triển, mức độ nặng hay nhẹ phụ thuộc chủ yếu vào nguyên nhân gây bệnh.

Chứng co thắt ở trẻ nhỏ là một dạng động kinh đặc biệt và khó kiểm soát. Tuy nhiên, việc phát hiện sớm và điều trị sớm có ý nghĩa rất lớn đối với sức khỏe của trẻ. Nếu chứng co thắt trẻ sơ sinh không điều trị sớm, trẻ thường sẽ bị khuyết tật phát triển hoặc khả năng vận động.

Liên hệ ngay với chúng tôi qua số điện thoại 0243.775.9051 nếu bạn còn bất kỳ thắc mắc gì về động kinh thể West hoặc các phương pháp điều trị, chúng tôi sẽ hỗ trợ tư vấn cho bạn.

Sản phẩm từ thảo dược Câu đằng, An tức hướng giúp hỗ trợ điều trị hội chứng West hiệu quả

Trẻ động kinh nên ăn gì, kiêng gì để hạn chế tăng cơn?

Các phương pháp điều trị động kinh, hội chứng west mới nhất hiện nay

Biên tập viên sức khỏe Trung Mỹ

West syndrome (infantile spasms)

Bệnh Lao Ở Trẻ Sơ Sinh

Lao phổi là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Có trẻ nhiễm vi khuẩn lao bẩm sinh và tiến triển thành bệnh lao phổi, lao xương, lao hạch thậm chí là lao màng não. Biểu hiện của bệnh lao rất đa dạng, việc chẩn đoán và điều trị bệnh lao ở trẻ em cũng khá phức tạp. Vậy làm cách nào để phòng ngừa bệnh lao ở trẻ sơ sinh? Mời ba mẹ theo dõi bài viết!

Lao phổi là gì?

Lao (hay lao phổi) là bệnh truyền nhiễm do một loại vi khuẩn gọi là Mycobacterium tuberculosis gây ra. Thông thường, virus lây nhiễm tấn công vào phổi nhưng nó cũng có thể gây tổn thương các bộ phận khác của cơ thể, chẳng hạn như cột sống, thận và não.

Bệnh lao có hai giai đoạn:

Giai đoạn 1: Nhiễm lao (hoặc lao tiềm ẩn)

Nếu em bé bị nhiễm lao, vi khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể trẻ nhưng hệ thống miễn dịch của con đã ngăn chúng gây ra các triệu chứng. Một người bị nhiễm vi khuẩn lao nhưng chưa mắc bệnh không thể truyền vi khuẩn sang người khác nhưng nên được điều trị để ngăn ngừa sự phát triển của bệnh.

Giai đoạn 2: Bệnh lao.

Nếu em bé mắc bệnh lao nghĩa là vi khuẩn lao đã nhân lên và các triệu chứng ngày càng rõ ràng hơn. Những người mắc bệnh lao có thể lây sang người khác (tuy nhiên lao ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ ít có khả năng lây bệnh cho người xung quanh).

Các triệu chứng của bệnh lao ở trẻ sơ sinh

Các triệu chứng của bệnh lao ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bao gồm:

Những triệu chứng này cũng phổ biến khi trẻ mắc các bệnh khác, vì vậy mẹ sẽ cần đưa bé đến khám bác sĩ chẩn đoán chính xác.

Ba mẹ nên đọc bài viết Dấu hiệu trẻ cần đi khám ngay để nhanh chóng nhận ra các tình trạng cần đưa trẻ đến gặp bác sĩ ngay.

Trẻ sơ sinh bị nhiễm bệnh lao thường do dai dẳng

Nguyên nhân gây bệnh lao ở trẻ

Hít phải vi khuẩn trong không khí: Em bé có thể bị bệnh lao nếu hít phải vi khuẩn từ những giọt bay vào không khí khi một người mắc bệnh lao ho hoặc hắt hơi. Trẻ em thường mắc bệnh lao từ người lớn chứ không phải từ những em bé khác. Đó là bởi vì dịch nhầy của trẻ em hiếm khi chứa nhiều vi khuẩn và sức ho của trẻ không đủ mạnh để phun các giọt vào không khí. Ngoài ra, các dạng bệnh lao ở trẻ em thường ít lây nhiễm hơn các dạng lao ở người trưởng thành.

Trước hoặc trong khi sinh: Em bé có thể mắc bệnh lao trong bụng mẹ hoặc khi chuyển dạ nếu mẹ bị nhiễm bệnh. Các vi khuẩn có thể đi qua nhau thai. Hoặc em bé bị nhiễm bệnh do nuốt phải chất lỏng trong ống sinh sản bị viêm trong quá trình sinh nở.

Bệnh lao ở trẻ sơ sinh nguy hiểm như thế nào?

Hầu hết trẻ nhiễm vi khuẩn lao sẽ không phát triển thành bệnh. Tuy nhiên, nếu trẻ mắc bệnh lao, căn bệnh này sẽ đặc biệt nguy hiểm với trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Sau khi bé hít phải vi khuẩn lao, chúng sẽ ổn định và phát triển trong phổi.

Sau đó, vi khuẩn có thể di chuyển trong dòng máu đến thận, cột sống và não. Vi khuẩn sẽ lây lan giữa các bộ phận trong cơ thể trẻ em nhanh hơn ở cơ thể người lớn.

Tỷ lệ trẻ mắc bệnh lao trên thế giới

Lao từng là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu, nhưng hiện nay không còn nhiều người mắc bệnh này nữa. Từ giữa những năm 1980 đến 1992, số ca bệnh lao tại Mỹ này đang gia tăng lên tới hơn 26.000 ca.

Nhưng kể từ đó, các trường hợp đã giảm xuống mức thấp là 9.000 trường hợp vào năm 2018. Đây là tỷ lệ mắc mới thấp nhất trong hồ sơ. Chỉ có 4% những trường hợp đó là ở trẻ em dưới 15 tuổi.

Tuy nhiên, tại các vùng của Châu Á và Châu Phi, bệnh lao là một trong những căn bệnh phổ biến ở trẻ em. Theo ước tính của Tổ chức Y tế Thế giới có hơn một triệu trẻ em mắc bệnh này và hơn 230.000 trẻ em đã tử vong. Tính trên tất cả các độ tuổi có khoảng 10 triệu trường hợp mới được chẩn đoán mắc bệnh lao vào năm 2018.

Những em bé nào có nguy cơ mắc bệnh lao cao?

Trẻ em có nguy cơ mắc bệnh lao cao nhất nếu:

Trẻ sống trong một gia đình có người lớn nhiễm vi khuẩn lao hoạt động

Trẻ vô gia cư, trẻ phải sống trong một nơi trú ẩn tạm thời, hoặc trẻ đang ở với một người đang ở trong tù

Trẻ có hệ thống miễn dịch yếu hoặc bệnh suy giảm hệ miễn dịch, chẳng hạn như HIV

Trẻ được sinh ra ở một đất nước có tỷ lệ mắc bệnh lao cao

Trẻ đã đi du lịch ở một quốc gia có bệnh lao truyền nhiễm rộng và đã tiếp xúc lâu dài với những người sống ở đó

Trẻ sống trong các cộng đồng với ý thức và dịch vụ chăm sóc sức khỏe kém phát triển

Nên làm gì nếu mẹ nghi ngờ con bị phơi nhiễm với bệnh lao

Mẹ hãy liên hệ với bác sĩ ngay lập tức nếu con đã tiếp xúc với người bị bệnh lao, hoặc mẹ nhận ra các triệu chứng của bệnh lao.

Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mắc lao có nguy cơ cao bị biến chứng như viêm màng não rất cao. Vì vậy điều quan trọng nhất là em bé phải tới thăm khám bác sĩ ngay lập tức để được chẩn đoán và điều trị.

Chẩn đoán bệnh lao ở trẻ sơ sinh

Nếu trẻ có khả năng bị bệnh lao, bác sĩ sẽ:

Làm xét nghiệm da. Trong xét nghiệm da, bác sĩ sẽ tiêm một loại vi khuẩn lao vào cánh tay của bé. Sau đó, bác sĩ sẽ kiểm tra khu vực được xét nghiệm sau 48 đến 72 giờ. Bác sĩ sẽ xem xét da của bé có xuất hiện vết sưng nào không, kiểm tra kích thước và độ cứng để cho ra kết quả kiểm tra. Đôi khi, các bác sĩ sẽ thực hiện xét nghiệm máu thay cho xét nghiệm da mặc dù xét nghiệm này thường chỉ được sử dụng với trẻ trên 5 tuổi.

Lặp lại xét nghiệm da (hoặc xét nghiệm máu) nếu cần thiết. Bởi vì có thể mất hai đến 12 tuần sau khi trẻ bị nhiễm vi khuẩn mới cho ra kết quả dương tính lần đầu tiên. Nếu trẻ có kết quả âm tính, bác sĩ sẽ cần lặp lại các xét nghiệm sau 3 tháng.

Chụp X-quang ngực nếu kết quả xét nghiệm da hoặc xét nghiệm máu dương tính. Xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm da cho kết quả dương tính có nghĩa là em bé đã bị nhiễm vi khuẩn lao nhưng bé có thể chưa mắc bệnh lao (hoặc vi khuẩn lao có thể không hoạt động). Em bé sẽ cần chụp X-quang ngực để xác định xem bé có bị bệnh lao hay không.

Kiểm tra dịch tiết ho và dạ dày của bé. Bác sĩ sẽ kiểm tra dịch tiết ho và này để tìm kiếm thêm bằng chứng về vi khuẩn nếu kết quả chụp X-quang chỉ ra tình trạng nhiễm trùng. Điều này sẽ xác định em bé cần điều trị bằng phương pháp nào.

Bệnh lao ở trẻ sơ sinh được điều trị như thế nào

Phương pháp điều trị sẽ phù hợp với giai đoạn phát triển của bệnh:

Đối với nhiễm trùng lao tiềm ẩn: Nếu em bé của bạn bị nhiễm bệnh nhưng chưa phát bệnh, anh ấy sẽ cần phải dùng thuốc kháng sinh hàng ngày trong ba đến chín tháng để ngăn ngừa bệnh phát triển.

Đối với bệnh lao hoạt động: Nếu con mắc bệnh lao, có thể bé sẽ phải uống ba hoặc bốn loại thuốc trong ít nhất sáu tháng, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh. (Các bác sĩ khuyên em bé nên uống nhiều loại thuốc cùng một lúc trong trường hợp vi khuẩn kháng bất kỳ loại nào trong số chúng.) Trẻ cũng sẽ cần được kiểm tra thường xuyên để xem quá trình điều trị đang tiến triển như thế nào và trong trường hợp thuốc có tác dụng phụ.

Mặc dù em bé có thể sẽ cảm thấy tốt hơn và có dấu hiệu cải thiện sau một vài tuần dùng thuốc, nhưng điều quan trọng là bé phải uống đủ toàn bộ quá trình. Nếu trẻ không chịu uống, bệnh có thể trở lại ở dạng kháng thuốc mạnh hơn.

Làm thế nào có thể phòng ngừa bệnh lao?

Ngày nay, nguy cơ nhiễm bệnh lao là rất thấp. Mẹ có thể giảm thêm nguy cơ bị nhiễm bệnh bằng cách:

Tránh để trẻ tiếp xúc với những người mắc bệnh lao, kể cả khi đi du lịch nước ngoài.

Duy trì mức sống tốt, thói quen tốt

Rửa tay thường xuyên

Hắt hơi và ho vào khăn giấy hoặc khuỷu tay

Không dùng chung khăn, dụng cụ ăn uống và ly uống nước

Có nên đưa trẻ đi tiêm phòng bệnh lao không?

Vắc-xin bệnh lao không phải là mũi tiêm bắt buộc bởi vì:

Các bác sĩ và chuyên gia không chắc chắn về công dụng của vắc-xin

Tỷ lệ mắc phải bệnh lao là rất thấp

Tiêm phòng ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm da. (Một em bé đã được tiêm vắc-xin có thể có kết quả xét nghiệm da dương tính với vi khuẩn lao)

Tuy nhiên, tại các quốc gia nơi bệnh lao phổ biến, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ cần được tiêm vắc-xin ngừa bệnh lao đầy đủ.

Bệnh Tim Ở Trẻ Sơ Sinh. Triệu Chứng.

Các khuyết tật phát triển của hệ thống tim mạch ở trẻ sơ sinh là do các rối loạn rất phức tạp trong việc đặt các cơ quan trong quá trình phát triển của thai nhi và kèm theo các rối loạn huyết động nặng, tùy theo loại và mức độ nghiêm trọng của bệnh có thể biểu hiện ngay lập tức vài giờ sau khi sinh hoặc sau vài năm sống. Một số khuyết tật tim bẩm sinh không phù hợp với cuộc sống, và cần phải can thiệp phẫu thuật ngay lập tức. Nếu không, đứa trẻ có thể chết.

Theo nguyên tắc, cho đến nay, bệnh tim ở trẻ sơ sinh được xác định trong tử cung trong thời kỳ mang thai khi siêu âm. Cha mẹ được nói ngay những gì nó đang đe dọa và những biện pháp nào sẽ cần phải được thực hiện sau khi đứa trẻ chào đời.

Có nhiều phân loại khác nhau về dị tật của hệ tim mạch ở trẻ em. Đây là một trong số họ.

Tất cả tật xấu được chia thành hai nhóm lớn:

– Trắng (với ngả trái), với những tật xấu này không có sự trộn lẫn của máu động mạch và tĩnh mạch;

– màu xanh (với shunt bên phải), khi máu động mạch được trộn với tĩnh mạch.

Ngược lại, các nhóm này được chia thành nhiều nhóm khác. Vì vậy, các tệ nạn trắng bao gồm những tệ nạn, đi kèm với một dòng máu tràn vào vòng tuần hoàn máu nhỏ, nghĩa là Phổi (hở đường dẫn mở (OAP), khiếm khuyết hạch nách thất trái và liên thất (ASD, DMF), mở liên kết thất trái, vân vân …).

Chúng cũng bao gồm bệnh tim ở trẻ sơ sinh với sự bế tắc của một lượng lớn lưu thông máu, nghĩa là Trong toàn bộ cơ thể, đây là một khiếm khuyết khá phổ biến, chẳng hạn như coarctation của động mạch chủ (thu hẹp động mạch chủ).

Các lỗ hổng màu xanh bao gồm dị tật bẩm sinh với một vòng tròn máu lưu thông nhỏ, chẳng hạn như chuyển đổi động mạch chủ, phức hợp Eisenmenger, cũng như các tệ nạn với việc rò rỉ một vòng tuần hoàn nhỏ (tetralogy của Fallot et al.

Nếu bệnh tim ở trẻ sơ sinh không được phát hiện trong thai kỳ, sau đó nó được thành lập theo các biểu hiện lâm sàng. Chúng có thể rất đa dạng, nhưng có một số triệu chứng lâm sàng kèm theo bất kỳ khiếm khuyết nào.

Các triệu chứng bệnh tim:

– suy tim cấp tính hoặc mãn tính , đi kèm với các cơn đau thắt ngực, ngứa, xám da, có kèm theo chứng thiếu máu mãn tính ở trẻ, nhạt màu trong tam giác mũi, trẻ không giữ nhiệt độ cơ thể, vv

– Các triệu chứng về tim phát triển chậm hơn một chút do sự phát triển của trẻ, bao gồm những lời phàn nàn về đau đớn ở tim, có thể là sự phát triển của bướu cổ (vì ngực của trẻ sơ sinh rất dễ uốn), nhiều tiếng rú lên nhau trong tim, và cấu tạo của tim và các mạch chính bị thay đổi.

– suy hô hấp, phát triển dưới bất kỳ hình thức dị tật nào. Nó kèm theo thiếu không khí, trẻ ngưng, thở nặng, tỷ lệ hô hấp vượt xa nhịp thở bình thường. Đôi khi, rút lại các phần mềm của ngực khi hít phải được quan sát.

– Trong tương lai, trẻ em có khuyết tật phát triển tình trạng thiếu oxy mãn tính, được thể hiện bằng các triệu chứng của “drumsticks” trên ngón tay, sự chậm trễ trong sự phát triển của bất kỳ phần nào của cơ thể, hoặc toàn bộ cơ thể.

Tuyệt đối luôn là bệnh tim ở trẻ sơ sinh kèm theo những tiếng rì rầm tim, mà chỉ có bác sĩ tim mạch có kinh nghiệm mới có thể nghe được, mặc dù bất kỳ bác sĩ nhi khoa nào cũng có nhiều tiếng ồn ào và rõ rệt. Khi bạn đi kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho bác sĩ nhi khoa, hãy nhấn mạnh rằng bé nghe trái tim ít nhất, không phải lúc nào cũng phải đo chiều dài của cơ thể, chu vi đầu, tần suất thở, xung và áp lực. Đây là những khám nghiệm cơ bản cần thiết của trẻ sơ sinh.