Top 10 # Hội Chứng Thuỷ Đậu Bẩm Sinh Là Gì Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Thủy Đậu Ở Phụ Nữ Có Thai Và Hội Chứng Thủy Đậu Bẩm Sinh

I. ĐẠI CƯƠNG

Bệnh thủy đậu (chicken pox) là bệnh nhiễm virút tiên phát do Varicella Zoster Virus (VZV) gây ra. Bệnh chủ yếu xảy ra ở trẻ em, diễn biến thường nhẹ và tự khu trú, trong khi đó nhiễm virus này ở người lớn thường nặng nề hơn và có thể gặp một số biến chứng nguy hiểm.

Trong thời kỳ mang thai, nhiễm thủy đậu có thể gặp biến chứng viêm phổi do VZV, có thể dẫn đến biến chứng nặng nề khác, thậm chí là tử vong. Nhiễm thủy đậu trong thời kỳ này cũng có thể có nguy cơ gây ra các bất thường về thai, đặc biệt là trong 20 tuần đầu của thai kỳ.II. SỰ LÂY NHIỄM VIRUS SANG THAI NHI

Sự lây truyền virút từ mẹ sang trẻ có thể xảy ra trong thời kỳ mang thai do virút từ máu mẹ qua nhau thai gây nhiễm virus ở thai nhi. Sự lây truyền từ mẹ sang con còn có thể sảy ra trong quá trình sinh và sau khi sinh.III. LÂM SÀNG

3.1. Thủy đậu không biến chứng

Biểu hiện triệu chứng lâm sàng và tổn thương da đặc trưng của thủy đậu:

– Trước khi xuất hiện các thương tổn da, bệnh nhân có thể xuất hiện triệu chứng toàn thân như sốt, đau họng, viêm đường hô hấp trên, nhức đầu, mệt mỏi.

– Tổn thương da: khởi phát các ban đỏ, các sẩn sau đó nhanh chóng thành các mụn nước. Các mụn nước nhỏ, kích thước khoảng 2-3 mm, nông, lõm giữa. nông. Mụn nước nhanh chóng hóa mụn mủ và đóng vảy tiết. Có thể thấy trên người bệnh cùng lúc các thương tổn là sẩn, mụn nước, mụn mủ và vẩy tiết. Tổn thương thường xuất hiện đầu tiên ở mặt và đầu, sau đó lan xuống thân mình, các chi. Các thương tổn nhiều hơn ở thân mình và mặt, ít hơn ở các chi. Khi các mụn nước đóng vẩy tiết, sau khoảng 1-3 tuần sẽ bong vẩy và để lại dát đỏ tươi, lõm rồi lành dần, nhưng một số có thể để lại sẹo lõm vĩnh viễn.

– Các thương tổn thuỷ đậu có ngứa.

3.2. Thủy đậu có biến chứng

Thủy đậu ở người lớn thường gặp biến chứng nhiều hơn ở trẻ em. Thủy đậu ở phụ nữ có thai diễn biến bệnh thường nặng hơn so với người không mang thai.

– Các biến chứng bao gồm: viêm màng não, viêm não, viêm phổi, viêm cầu thận, viêm cơ tim, bệnh về mắt, nhiễm khuẩn thứ phát, thậm chí là tử vong.

· Viêm phổi do thủy đậu

+ Hay gặp nhất trong thời kỳ mang thai, chiếm khoảng 10-20%. Bệnh thường phát triển trong vòng 1 tuần sau khi phát ban.

+ Biểu hiện: ho, khó thở, sốt, thở nhanh.

Khoảng 0,4 – 2% phụ nữ nhiễm VZV trong 20 tuần đầu tiên của thời kỳ thai nghén. Trẻ bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh (HCTĐBS). Nghiên cứu của Enders G, Miller E và công sự (năm 1994) trên 1739 bệnh nhân cho thấy: 0,4% phụ nữ có thai bị thủy đậu trước tuần thứ 12 sinh con mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh, nguy cơ tăng lên khoảng 2% nếu xảy ra trong tuần 13 đến tuần thứ 20 của thai kỳ.

Ø Đặc điểm lâm sàng của hội chứng thủy đậu bẩm sinh

+ Các vết sẹo ngoài da , phân bố theo Dermatomal.

+ Bất thường về thần kinh như: chậm phát triển trí tuệ, tật đầu nhỏ, não úng thủy, co giật, hội chứng Horner.

+ Bất thường về mắt như: teo dây thần kinh thị giác, đục thủy tinh thể, viêm màng võng mạc, tật nhãn cầu nhỏ, rung giật nhãn cầu.

+ Bất thường các chi: giảm sản, teo/ liệt tứ chi.

+ Bất thường về tiêu hóa: trào ngược dạ dày – thực quản, hẹp/ tắc ruột.

+ Cân nặng lúc sinh thấp. Trong số những trẻ bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh, có đến 30% trẻ tử vong trong những tháng đầu đời, và 15% có nguy cơ mắc bệnh Zona trong 4 năm đầu.

Ø Sinh non và sẩy thai tự nhiên:

+ Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng không có sự khác biệt về tỷ lệ sẩy thai tự nhiên giữa những người phụ nữ mang thai có mắc hay không mắc thủy đậu.

Ø Nhiễm VZV sơ sinh: là kết quả của lây truyền VZV từ mẹ sang thai nhi ngay sau khi sinh. Trẻ sơ sinh được sinh ra từ người mẹ bị bệnh trong 5 ngày trước khi sinh và 2 ngày sau khi sinh có nguy cơ bị bệnh nặng.

Ảnh: Bệnh nhân 24 tuổi, đang mang thai 18 tuần, xuất hiện tổn thương thủy đậu 3 ngày.

IV. CHẨN ĐOÁN

– Chẩn đoán thủy đậu ở mẹ dựa vào lâm sàng: Trường hợp nghi ngờ có thể làm PCR, kỹ thuật phát hiện kháng nguyên bằng miễn dịch huỳnh quang, nuôi cấy và phân lập.

– Chẩn đoán viêm phổi do thủy đậu: Phụ nữ có thai có tổn thương da điển hình, tiếp xúc với VZV, và có triệu chứng về hô hấp. Ở phụ nữ có thai hạn chế chụp XQ ngực hay cắt lớp vi tính lồng ngực để chẩn đoán viêm phổi, nên chẩn đoán này chủ yếu dựa trên lâm sàng.

– Hội chứng thủy đậu bẩm sinh Chẩn đoán trước sinh: Sau khi mẹ bị nhiễm thủy đậu, nguy cơ mắc HCTĐBS có thể được ước lượng bằng xét nghiệm PCR DNA VZV của máu bào thai hoặc dịch ối kết hợp với siêu âm để phát hiện các dị tật của thai. Cần đánh giá về giải phẫu trên siêu âm ít nhất 5 tuần sau khi người mẹ bị thủy đậu để quan sát được các dị tật của thai phù hợp với HCTĐBS.

+ Kết quả xét nghiệm và hình ảnh bình thường cho thấy nguy cơ thấp, tuy nhiên vẫn phải siêu âm lặp lại vào tuần 22-24. Nếu siêu âm cho kết quả bình thường thì nguy cơ trẻ sinh ra mắc HCTĐBS là rất thấp.

+ Nếu trên siêu âm có bằng chứng của HCTĐBS, người mẹ nên được tư vấn về khả năng mắc HCTĐBS của thai nhi.

– Mẹ có tiền sử bị thủy đậu trong 3 tháng đầu tiên và thứ 2 của thai kỳ.

– Thai nhi có các dị tật phù hợp với các dị tật trong HCTĐBS.

– Có bằng chứng nhiễm VZV trong tử cung, bao gồm 1 trong các dấu hiệu: + Phát hiện DNA của VZV ở trẻ sơ sinh.

+ Sự có mặt của kháng thể IgM VZV trong máu cuống rốn.

+ Sự tồn tại của IgG VZV sau 7 tháng tuổi.

+ Sự xuất hiện sớm bệnh Zona trong suốt thời kỳ trẻ nhỏ.V. QUẢN LÝ THỦY ĐẬU Ở PHỤ NỮ CÓ THAI

5.1. Điều trị thủy đậu ở phụ nữ có thai

– Thủy đậu không biến chứng: sử dụng acyclovir đường uống (800mg x 5 lần/ ngày trong 7 ngày) cho tất cả phụ nữ có thai không có biến chứng.

– Nghiên cứu của Stone KM và cộng sự (năm 2004) trên 1695 phụ nữ có thai tiếp xúc với Acyclovir đường uống hoặc đường tĩnh mạch thì không thấy có sự khác biệt về tỷ lệ dị tật ở thai nhi so với quần thể chung.

– Sử dụng sớm Acyclovir trong vòng 72 h đầu kể từ khi khởi phát được chứng minh là có hiệu quả làm lành tổn thương nhanh hơn, giảm thời gian bị bệnh (đặc biệt trong 24h đầu).

– Viêm phổi do thủy đậu: là tình trạng cấp cứu, đe dọa tính mạng. Tỷ lệ tử vong ở phụ nữ có thai bị viêm phổi do thủy đậu trước thời kỳ dùng thuốc kháng virus là 36-40%. Nghiên cứu hồi cứu của Smego RA (năm 1991) trên 21 bệnh nhân, thấy tỷ lệ tử vong là 14%. Khuyến cáo điều trị: Acyclovir 10mg/kg truyền tĩnh mạch mỗi 8h/ lần.

5.2. Với phụ nữ tiếp xúc thứ phát với bệnh nhân bị thủy đậu

Việc điều trị dự phòng cho đối tượng này còn gây tranh cãi. Và việc điều trị dự phòng sau khi tiếp xúc hướng tới những người dễ nhiễm bệnh như: không có tiền sử nhiễm bệnh hoặc bằng chứng về huyết thanh học về sự phơi nhiễm trước đó.

Hiệp hội tư vấn tiêm chủng Hoa Kỳ khuyến cáo dùng VariZIG – chế phẩm globulin miễn dịch với VZV cho tất cả phụ nữ có thai chưa có miễn dịch tiếp xúc với bệnh nhân bị thủy đậu. Điều trị dự phòng sau tiếp xúc là không cần thiết ở những phụ nữ đã được tiêm vắc xin thủy đậu trước đó.

Các bệnh nhân cần được theo dõi cẩn thận các biểu hiện bệnh trên lâm sàng, nếu bệnh nhân biểu hiện bệnh cần điều trị. Những phụ nữ có thai có nguy cơ phơi nhiễm và không phát triển bệnh thủy đậu nên tiêm phòng Vắc xin sau khi sinh và ít nhất năm tháng sau khi điều trị dự phòng bằng chế phẩm globulin miễn dịch.VI. DỰ PHÒNG

Tiêm vắc xin dự phòng cho những phụ nữ chưa có tiền sử tiêm phòng Vắc xin và chưa bị bệnh đóng vai trò quan trọng trong việc giảm tỷ lệ bị bệnh, giảm mức độ nặng của bệnh ở phụ nữ có thai và đặc biệt đóng vai trò trong việc giảm tỷ lệ trẻ bị mắc HCTĐBS.

Thủy đậu ở phụ nữ có thai có lâm sàng nặng nề và tỷ lệ biến chứng cao, vì thế việc tiêm vắc xin, điều trị dự phòng sau phơi nhiễm, chẩn đoán và điều trị sớm bằng thuốc kháng virút đóng vai trò rất quan trọng. Ở những sản phụ bị nhiễm thủy đậu (đặc biệt trong 20 tuần đầu) cần được để ý khám và đánh giá các dị tật có thể có ở thai nhi theo khuyến cáo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Enders G, Miller E, Cradock-Watson J, et al. Consequences of varicella and herpes zoster in pregnancy: prospective study of 1739 cases. Lancet 1994; 343:1548.

2. Stone KM, Reiff-Eldridge R, White AD, et al. Pregnancy outcomes following systemic prenatal acyclovir exposure: Conclusions from the international acyclovir pregnancy registry, 1984-1999. Birth Defects Res A Clin Mol Teratol 2004; 70:201

3. Laura E Riley, Martin S Hirsch, Charles J Lockwood, Varicella-zoster virus infection in pregnancy, https://www.uptodate.com/.

Tin bài và ảnh: BSNT Nguyễn Thị Huyền Thương

Đăng tin: Phòng CNTT&GDYT

Thủy Đậu Khi Mang Thai. Con Có Nguy Cơ Bị Hội Chứng Thủy Đậu Bẩm Sinh

Thủy đậu khi mang thai là một trong những bệnh nguy hiểm trong thai kỳ nhất là trong tháng đầu thai kỳ. Thông thường, đối với bà bầu có thể trạng tốt, điều trị tốt thì hầu như không ảnh hưởng gì đến thai nhi. Tuy nhiên với người có thể trạng yếu,thai nhi có khả năng mắc hội chứng thủy đậu bẩm sinh gây sảy thai, thai chết lưu, dị tật..

Thủy đậu khi mang thai là do đâu?

Bệnh thủy đậu (dân gian thường gọi là trái rạ) là bệnh lây lan qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc trực tiếp do nhiễm Varicella zoster virus (VZV), thường gặp ở trẻ em. Thời gian ủ bệnh khoảng 2 tuần. Có thể do bà bầu tiếp xúc với người bị thủy đậu theo đường ăn uống, tuyến nước bọt..

Triệu chứng lâm sàng thường dễ nhận biết: sốt, mệt mỏi và nổi bóng nước khắp người, đường kính bóng nước từ 2 – 5mm.

Đây là một bệnh lành tính thường gặp ở trẻ em, tỉ lệ tử vong khoảng 1/50.000 trường hợp bệnh tại Mỹ. Nguy cơ bệnh tăng lên khi có kèm viêm phổi. Hút thuốc lá làm gia tăng nguy cơ viêm phổi trong bệnh thủy đậu.

Bệnh thủy đậu biểu hiện như thế nào?

Bệnh thủy đậu khi mang thai biểu hiện ban đầu dưới dạng phát ban đỏ rất ngứa, ban lan từ thân mình lên cổ, mặt và lan ra chân tay. Trong vòng 10 ngày, ban tiến triển từ các mụn đỏ thành các mụn (bọng) nước, các mụn nước này vỡ ra, chảy nước và đóng vẩy. Các mụn nước cũng có thể xuất hiện trong miệng, trên da đầu, xung quanh mắt, trên bộ phận sinh dục… và có thể rất ngứa.

Chu kỳ này tự lặp lại ở các vùng mới của cơ thể cho tới khi lành bệnh, sau khoảng 2 tuần, tất cả các vết loét đã lành. Bệnh rất dễ lây cho tới khi tất cả các tổn thương thủy đậu đã khô và không có tổn thương thủy đậu mới trong ngày. Thật không may, vi-rút cũng rất dễ lây trong tối thiểu 1 ngày trước khi ban bùng phát.

Ở trẻ em đã được tiêm phòng một mũi/liều vắc-xin thủy đậu thì vẫn có thể mắc bệnh thủy đậu nhưng biểu hiện nhẹ hơn và ngắn hơn, kéo dài 3 – 5 ngày với tổng số chỉ có dưới 30 tổn thương thủy đậu.

Các ban này có thể vẫn dễ lây cho người có hệ thống miễn dịch kém. Để phòng tránh bệnh thủy đậu, kể cả các thủy đậu thể nhẹ, thì hiện này có khuyến cáo tiêm 2 liều vắc-xin thủy đậu cho tất cả mọi người.

Bệnh thủy đậu ở phụ nữ có thai nguy hiểm như thế nào?

Nguy cơ cho mẹ

Triệu chứng lâm sàng thường dễ nhận biết: sốt, mệt mỏi và nổi bóng nước khắp người, đường kính bóng nước 2-5mm. Đây là một bệnh lành tính thường gặp ở trẻ em (khoảng 90% trường hợp mắc bệnh xảy ra ở trẻ dưới 10 tuổi), tỷ lệ tử vong khoảng 1/50.000 trường hợp tại Mỹ.

Theo nhiều nghiên cứu khác nhau, tần suất mắc bệnh thủy đậu nguyên phát (mắc bệnh lần đầu tiên) trong thai kỳ khoảng 5/10.000-7/10.000, bởi hầu hết thai phụ từng mắc bệnh khi còn nhỏ hoặc đã được chủng ngừa trước đó.

Ngoài ra, thủy đậu cũng có thể từ mẹ truyền sang cho thai nhi, làm bé có nguy cơ bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh. Biểu hiện của thủy đậu bẩm sinh là những vết sẹo dưới da, đầu nhỏ, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển.

– Tam cá nguyệt thứ nhất: Nếu mẹ bầu bị thủy đậu trong giai đoạn đầu của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh là khoảng 0,4 %. Ngoài ra, mẹ bầu cũng có nguy cơ sảy thai khá cao.

– Tam cá nguyệt thứ hai: 2% thai nhi có nguy cơ bị hội chứng thủy đậu bẩm sinh nếu mẹ mắc bệnh trong giai đoạn này. Nếu mẹ nhiễm thủy đậu sau tuần thứ 20 của thai kỳ, thai nhi hầu như sẽ không bị ảnh hưởng gì.

– Tam cá nguyệt thứ ba: Khoảng 5 ngày trước và 2 ngày sau sinh, nếu mẹ nhiễm thủy đậu, trẻ sơ sinh có nguy cơ nhiễm bệnh từ mẹ khá cao. Và nguy cơ tử vong của bé trong những trường hợp này lên đến 30%.

Hội chứng thủy đậu bẩm sinh là gì

Thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu có nguy cơ viêm phổi do virus varicella 10 – 20%, trong số người viêm phổi do virus này nguy cơ tử vong lên đến 40%.

Tỉ lệ tử vong ở cao nhất trong số những người lớn nhiễm bệnh này.

Đối với những thai phụ bệnh thủy đậu nguyên phát khi mang thai, sự ảnh hưởng của bệnh trên thai nhi tùy vào từng giai đoạn tuổi thai:

– Trong 3 tháng đầu, đặc biệt tuần lễ thứ 8 đến 12 của thai kỳ, nguy cơ thai nhi bị Hội chứng thủy đậu bẩm sinh là 0.4%. Biểu hiện thường gặp nhất của hội chứng thủy đậu bẩm sinh là sẹo ở da. Những bất thường khác có thể xảy ra là tật đầu nhỏ, bệnh lý võng mạc, đục thủy tinh thể, nhẹ cân, chi ngắn, chậm phát triển tâm thần.

Nếu người mẹ nhiễm bệnh trong vòng 5 ngày trước sinh và 2 ngày sau sinh, bé sơ sinh dễ bị bệnh thủy đậu lan tỏa do mẹ chưa có đủ thời gian tạo kháng thể truyền cho thai nhi trước sinh. Tỉ lệ tử vong bé sơ sinh lúc này lên đến 25 – 30% số trường hợp bị nhiễm.

Cách chữa thủy đậu cho bà bầu

Khi mắc bệnh thủy đậu, thai phụ cần được nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn thức ăn lỏng dễ tiêu hóa, nếu sốt có thể dùng thuốc hạ sốt paracetamol. Giữ vệ sinh thân thể, tránh làm vỡ những bóng nước vì có nguy cơ bội nhiễm.

Vì nguy cơ cao do biến chứng của bệnh thủy đậu, các thai phụ chưa có kháng thể bảo vệ (chưa từng bị bệnh thủy đậu hoặc chưa được chủng ngừa trước khi mang thai) nên dùng varicella zoster immune globulin (VZIG) trong vòng 72 giờ đầu sau khi phơi nhiễm với bệnh.

Việc dùng VZIG không phòng ngừa được nhiễm trùng bào thai, hội chứng thủy đậu bẩm sinh cũng như bệnh thủy đậu sơ sinh. Như vậy, việc dùng VZIG cho thai phụ chỉ phòng ngừa biến chứng nặng ở mẹ chứ không giúp ích cho thai nhi hoặc trẻ sơ sinh.

Để dự phòng biến chứng trên con nên dùng VZIG cho bé sơ sinh.

Đối với thai phụ nhiễm bệnh thủy đậu diễn tiến nặng có nguy cơ viêm phổi, nên được tư vấn dùng Acyclovir đường tĩnh mạch để giảm nguy cơ cho cả mẹ và thai. Acyclovir có vai trò ức chế sự phát triển của virus nên ức chế sự phát triển của bệnh.

Zovirax (acyclovir), là thuốc cần kê đơn, rất hữu ích trong việc rút ngắn thời gian của các triệu chứng bệnh thủy đậu nếu được sử dụng ngay trong ngày xuất hiện triệu chứng. Hầu hết các chuyên gia đều nhất trí rằng thuốc này và những thuốc tương tự nên được sử dụng cho trẻ em mắc bệnh thủy đậu có biến chứng phổi và não. Các nhiễm trùng ít nghiêm trọng hơn, một số bác sĩ khuyến cáo sử dụng thuốc này trong khi một số bác sĩ khác thì không.

Varizig, một thuốc đã được FDA phê chuẩn, dành cho trẻ em và người lớn có hệ miễn dịch yếu, trẻ sơ sinh, phụ nữ mang thai, trẻ sinh non, trẻ em dưới 1 tuổi, và người lớn không có miễn dịch với vi-rút thủy đậu. Varizig được sử dụng tối thiểu 2 liều tiêm tĩnh mạch, tùy thuộc vào trọng lượng cơ thể của bệnh nhân, trong vòng 96 giờ sau khi phơi nhiễm.

Ngoài ra, bác sĩ có thể khuyến cáo sử dụng thuốc kháng histamin (thuốc cần kê đơn), như Benadyl hoặc Zyrtec, để làm giảm đau, ngứa, và phù nề. Thuốc kháng sinh được chỉ định cho các trường hợp nhiễm trùng da thứ phát do vi khuẩn hoặc những người bị thủy đậu có bội nhiễm phổi (viêm phổi do vi khuẩn).

Cách phòng ngừa và điều trị thủy đậu cho phụ nữ mang thai

Phòng bệnh hơn chữa bệnh nên lời khuyên tốt nhất là chị em phụ nữ nên đi tiêm chủng ngừa thủy đậu ít nhất 3 tháng trước khi mang thai (nếu đã từng tiêm trước đó thì không cần tiêm lại). Ngoài ra tránh tiếp xúc với người mắc thủy đậu,giữ gìn vệ sinh cá nhân và môi trường xung quanh.

Nếu như phụ nữ mắc bệnh thủy đậu trong khi đang mang thai thì hãy chú ý đến tất cả các triệu chứng, liên hệ ngay với bác sĩ chuyên môn để điều trị kịp thời. Tại đây các mẹ sẽ được trao đổi về cách điều trị cùng với nguy hiểm của những biến chứng cho cả mẹ và bé. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của tình trạng bệnh, bác sĩ sẽ đưa ra những biện pháp điều trị cần thiết, vì thế tình hình sẽ không vượt qua khỏi sự kiểm soát. Cụ thể:

– Được cách ly đề phòng lây lan (cho đến khi tất cả bóng nước đều đã đóng vảy)

– Chuẩn bị phòng ở sạch sẽ, thoáng mát, nghỉ ngơi, uống nhiều nước, ăn đủ chất, nhiều vitamin, thức ăn lỏng dễ tiêu hóa… Giữ vệ sinh cá nhân, giữ da khô sạch, hạn chế gãi, tránh làm vỡ các bọng nước để tránh nguy cơ bội nhiễm.

– Điều trị triệu chứng: Hạ sốt, chống ngứa.

– Điều trị biến chứng: Kháng sinh nếu có bội nhiễm. Tùy theo biến chứng mà có điều trị hổ trợ.

-Nếu diễn tiến nặng hơn, có nguy cơ viêm phổi nên được tư vấn dùng acyclovir đường tĩnh mạch để giảm nguy cơ cho mẹ và thai.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng một trong những cách tốt nhất để giảm nguy cơ nhiễm bệnh thủy đậu rất đơn giản là tránh tiếp cận với người bệnh, hay bất kỳ người nào tuy đã miễn dịch nhưng có tiếp xúc với người bệnh trong vòng ba tuần.

Trong quá trình mang thai, điều tuyệt vời nhất là em bé sinh ra được khỏe mạnh, phát triển tốt. Vì vậy, bạn cũng có thể tiêm phòng thủy đậu khi mang thai để tránh những triệu chứng xấu ngoài mong muốn gây ảnh hưởng đến sức khỏe của cả mẹ và thai nhi.

Sản phẩm củ gai tươi của nhà thuốc có đầy đủ hộp – hướng dẫn sử dụng – túi chống ẩm mốc – đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm

Lưu ý: – Đang dùng thuốc Tây y ( thuốc nội tiết, thuốc chống co thắt tử cung) thuốc tiêm, uống, đặt nội tiết vẫn dùng được bình thường . – Không có tác dụng phụ hay tác dụng không mong muốn . Bảo quản: nơi khô ráo, tránh ánh ẩm ướt và ánh sáng trực tiếp.Liên hệ để được tư vấn : 0163.249.6789

Bệnh Thuỷ Đậu Tắm Gốc Rạ

Nhiều người dân ở vùng nông thôn truyền tai nhau một cách chữa bệnh thủy đậu lấy nguyên liệu có sẵn ở vùng làng quê :đó là rơm rạ. Người bị bệnh thủy đậu tắm gốc rạ, uống nước gốc rạ. Thế nhưng việc làm này có thực sự giúp cho người bệnh nhanh khỏi thủy đậu, hay chỉ làm cho bệnh trở nên nghiêm trọng hơn. Bài viết sẽ đề cập đến cách chữa bệnh truyền miệng này và làm rõ tác ảnh hưởng hay tác dụng của nó lên bệnh tình người bệnh.

Bạn có biết: Bệnh thủy đậu nguy hiểm như thế nào?

Bệnh thuỷ đậu tắm gốc rạ – bài thuốc có thể nguy hiểm gây chết người.

Một số người chủ yếu là ở vùng nông thôn cho rằng khi bị bệnh trái rạ thì dùng gốc rạ nấu lên rồi tắm sẽ nhanh khỏi. Lý do có quan niệm này là bởi họ thấy nốt đậu trên cơ thể người bệnh nhìn trông giống với gốc rạ, điều này cũng lý giải một phần tên gọi trái rạ được người đi trước đặt ra cho bệnh thủy đậu. Từ đó họ nghĩ ra cách tắm nước rạ, uống nước gốc rạ để chữa bệnh thủy đậu. Tuy nhiên, các bác sĩ đã cảnh báo rằng việc làm này là vô cùng sai lầm và không có căn cứ, nó còn tăng khả năng bị nhiễm trùng của người bệnh. Bệnh thủy đậu tắm gốc rạ không những không có tác dụng gì hết, mà đôi khi còn gây nhiễm trùng da, nguy hiểm hơn gây ra nhiễm trùng huyết. Uống nước gốc rạ có khi còn bị ngộ độc.

Bệnh thủy đậu tắm gốc rạ – những quan niệm dân gian không phải lúc nào cũng chính xác.

Việc mọi người cho rằng bệnh thủy đậu tắm gốc rạ dựa trên những phép so sánh không theo một cơ sở khoa học nào cả nhiều khi sẽ khiến cho bệnh tình của người bệnh trở nên nặng hơn, điều này chứng tỏ người dân vẫn còn đặt nhiều niềm tin vào những quan niệm không có căn cứ khi bị bênh, không chỉ bệnh thủy đậu mà cả nhiều căn bệnh khác. Có những bài thuốc dân gian được đúc kết từ kinh nghiệm của ông bà để lại thực sự có giá trị, tuy nhiên chúng ta cũng cần chắt lọc những gì phù hợp với khoa học, bởi chữa bệnh là một chuyện rất quan trọng, nếu không tỉnh táo thì nhiều khi càng khiến bệnh trở nên trầm trọng và thậm chí còn ảnh hưởng đến tính mạng của người bệnh. Theo Cục y tế dự phòng(Bộ Y tế) khuyễn cáo người dân nên đi tiêm phòng vaccine phòng ngừa bệnh thủy đậu đủ liều và đúng lịch. Ngoài ra cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, thường xuyên dùng nước muối để vệ sinh mũi, họng trong nhũng khoảng thời gian chuyển mùa, thay đổi thời tiết. Bệnh thủy đậu là một căn bệnh lành tính, nhưng khi điều trị, bệnh nhân phải được chăm sóc thật cẩn thận, tránh những quan niệm, bài thuốc không được kiểm chứng bởi khoa học.

Bị Bệnh Thuỷ Đậu Có Ra Gió Được Không?

Thủy đậu là bệnh truyền nhiễm và có thể lây lan từ người này sang người khác bằng cách tiếp xúc trực tiếp hoặc gián tiếp qua 3 con đường chính sau:

Lây qua tiếp xúc trực tiếp với các nốt ban ngứa của người bị mắc thủy đậu.

Lây theo đường không khí qua dịch hô hấp hoặc dịch các nốt ban của người bệnh.

Lây lan gián tiếp qua tiếp xúc với các đồ vật dính dịch hô hấp hoặc dịch nốt ban của người bệnh. Các đồ vật như quần áo, khăn mặt, bàn chải đánh răng… bị ô nhiễm bởi chất dịch từ ban ngứa hoặc từ miệng hay mũi của người bị bệnh.

Ngoài ra, khi người mắc bệnh thủy đậu đi tiểu tiện làm nước tiểu bám lên thành bồn vệ sinh cũng có thể gây nhiễm cho những người tiếp xúc với nước tiểu đó. Bệnh thủy đậu có thể lây lan trước khi người bệnh phát hiện các nốt ban cho đến khi các nốt ban đóng vảy hoàn toàn. Khoảng 90% người chưa từng mắc thủy đậu sẽ phát bệnh sau khi tiếp xúc với dịch tiết của bệnh nhân.

Nhiễm trùng ở các vết mụn sau khi vỡ gây lở loét hoặc chảy máu bên trong. Đây là biến chứng thường gặp ở trẻ nhỏ do không kiêng được việc dùng tay để gãi ngứa.

Gây viêm màng não (xuất hiện sau 1 tuần mọc mụn nước): Đây là biến chứng có thể xảy ra ở cả trẻ em và người lớn. Tuy nhiên, người lớn dễ gặp phải biến chứng này hơn. Các triệu chứng đi kèm gồm sốt cao, co giật, hôn mê, rối loạn tri giác, rung giật nhãn cầu. Những biến chứng này có thể gây tử vong nếu không chữa trị kịp thời.

Viêm phổi thủy đậu: Biến chứng này thường xảy ra ở người lớn, vào ngày thứ 3 – 5 sau khi phát bệnh. Các biểu hiện như ho nhiều, ho ra máu, tức ngực và khó thở.

Gây viêm thận, viêm cầu thận cấp: Các triệu chứng đó là tiểu ra máu và suy thận.

Phụ nữ mang thai bị thủy đậu trước khi sinh có thể lây nhiễm thủy đậu từ mẹ sang con, khiến bé có thể bị khuyết tật hoặc tử vong.

Gây viêm tai giữa, viêm thanh quản: Các nốt mụn thủy đậu mọc ở khu vực tai gây lở loét, nhiễm trùng gây sưng tấy.

Bệnh zona thần kinh: Sau khi khỏi bệnh, virus thủy đậu vẫn tồn tại ở rễ dây thần kinh. Do đó, khi hệ thần kinh suy yếu, virus tái hoạt động và gây bệnh zona thần kinh.

Bệnh thuỷ đậu có ra gió được không?

Bệnh thủy đậu có được nằm quạt không? Hay bệnh thủy đậu có kiêng ra gió không? Đây là thắc mắc của rất nhiều người khi bị mắc bệnh này.

Theo quan niệm dân gian, khi bị thủy đậu người bệnh cần phải kiêng nhiều thứ như kiêng tắm, kiêng gió, kiêng nằm quạt… Tuy nhiên, đây là những quan điểm lạc hậu, gây ra tình trạng viêm nhiễm nốt thủy đậu gia tăng. Việc kiêng khem kham khổ, cứng nhắc và không đúng cách chỉ khiến bệnh thêm trầm trọng hơn mà thôi.

Trên thực tế, việc bật quạt hay tiếp xúc với gió không ảnh hưởng đến việc điều trị bệnh thủy đậu. Tuy nhiên, bạn chỉ nên bật quạt nhẹ nhàng để cho không khí thoáng mát và làm ráo mồ hôi. Lưu ý, không nên bật quạt quá mạnh hay ra ngoài khi có gió lớn sẽ khiến cơ thể bị nhiễm lạnh, sức khỏe kém và bệnh lâu khỏi hơn.

Bệnh thủy đậu có cần kiêng tắm không?

Tổng hợp

Bệnh thủy đậu thường xuất hiện vào mùa xuân hè khi thời tiết nắng nóng và nồm ẩm. Do đó, cơ thể sẽ càng tiết ra nhiều mồ hôi thì lỗ chân lông càng bị ứ đọng bã nhờn và từ đó gây cảm giác bết dính khó chịu trên da. Nếu người bị bệnh thủy đậu không tắm gội sẽ càng khiến những nốt mụn nước có nguy cơ bị nhiễm trùng và bệnh càng lâu khỏi.

Ngoài ra, khi cơ thể không được vệ sinh sạch sẽ thì triệu chứng ngứa ngáy lại càng dữ dội, người bệnh sẽ gãi các nốt mụn nước nhiều hơn, dẫn đến nốt mụn trên da bị trầy xước hoặc vỡ. Từ đó tăng nguy cơ lây nhiễm sang vùng da lành bệnh, gây sẹo và nhiễm trùng dễ biến chứng.

Vì vậy, trong thời gian bị bệnh, bạn cần được điều trị đúng phương pháp và giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, nên sinh hoạt như bình thường và chỉ hạn chế tắm, gội quá lâu để tránh bị nhiễm lạnh. Bên cạnh đó, bạn hãy sử dụng nước ấm để tránh làm tổn thương vùng da bị viêm nhiễm.