Top 12 # Hội Chứng Thiếu Máu Mạn Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Kidzkream.com

Điều Trị Chống Thiếu Máu Cục Bộ Cơ Tim Ở Bệnh Nhân Hội Chứng Mạch Vành Mạn

Bộ môn Nội, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Khoa Nội Tim Mạch, Bệnh viện Chợ Rẫy

Bệnh động mạch vành là một quá trình bệnh lý đặc trưng bởi tích lũy mảng xơ vữa động mạch trong các động mạch vành thượng tâm mạc, gây tắc nghẽn hoặc không tắc nghẽn. Quá trình này có thể thay đổi được bằng điều chỉnh lối sống, thuốc và can thiệp xâm lấn để ổn định hoặc thoái triển bệnh. Bệnh lý này có thể có thời kỳ ổn định kéo dài nhưng cũng có thể trở nên không ổn định bất kỳ lúc nào do biến cố huyết khối xơ vữa cấp tính gây ra bởi nứt vỡ hoặc xói mòn mảng xơ vữa. Tuy nhiên, bệnh động mạch vành mạn thường tiến triển và nặng, thậm chí trong những thời kỳ không biểu hiện lâm sàng. Bản chất động học của quá trình bệnh động mạch vành dẫn đến những biểu hiện lâm sàng khác nhau, có thể được phân loại thành hội chứng mạch vành cấp hoặc hội chứng mạch vành mạn. Hướng dẫn của Hội Tim Châu Âu năm 2019 [21] sử dụng thuật ngữ “hội chứng mạch vành mạn” (chronic coronary syndrome) thay cho “bệnh động mạch vành ổn định” (stable coronary artery disease) trong khuyến cáo vào năm 2013 [25].

TIẾP CẬN ĐIỀU TRỊ CHỐNG ĐAU THẮT NGỰC/THIẾU MÁU CỤC BỘ CƠ TIM

Chiến lược tiếp cận từng bước điều trị thuốc chống đau thắt ngực/thiếu máu cục bộ cơ tim trong hội chứng mạch vành mạn được đề nghị phụ thuộc vào một số đặc điểm ban đầu của bệnh nhân (Hình 4). Đáp ứng không hoàn toàn hoặc dung nạp kém ở mỗi bước cần chuyển sang bước tiếp theo. Chiến lược phải được điều chỉnh theo đặc điểm và sự ưa thích của mỗi bệnh nhân và không nhất thiết theo các bước được đề nghị.

3.1. Nitrat Nitrat tác dụng ngắn đối với đau thắt ngực cấp khi gắng sức

Tăng tần số tim tương quan tuyến tính với các biến cố tim mạch và lợi ích của giảm tần số tim như một mục tiêu điều trị trong các phân nhóm bệnh nhân hội chứng mạch vành mạn đã được chứng minh thông qua sử dụng các thuốc khác nhau. Tuy nhiên, ở các bệnh nhân nhịp tim chậm ban đầu (như tần số tim < 60 lần/phút), các thuốc giảm tần số tim (ức chế beta, ivabradine và ức chế canxi giảm tần số tim) nên được tránh hoặc sử dụng thận trọng và nếu cần khởi đầu ở liều rất thấp. Các thuốc chống đau thắt ngực không có tác dụng giảm tần số tim như trimetazidine và ranolazine nên được ưu tiên sử dụng.

Tóm lại, so với hướng dẫn năm 2013 [25], khuyến cáo năm 2019 của Hội Tim Châu Âu mặc dù vẫn chia các thuốc chống đau thắt ngực/thiếu máu cục bộ cơ tim thành hàng thứ nhất và hàng thứ hai nhưng đã chỉ ra rõ ràng hạn chế của tiếp cận này là không dựa vào y học chứng cứ từ các thử nghiệm lâm sàng [21]. Ngoài ra, cách tiếp cận của ESC 2019 có nhiều điểm tương đồng với tiếp cận “kim cương” là cần cá thể hóa điều trị ở từng đối tượng dựa vào đặc điểm bệnh nhân, bệnh đồng mắc, tương tác thuốc, sự ưa thích của bệnh nhân và sự sẵn có của thuốc.

Nitrat tác dụng dài đối với dự phòng đau thắt ngực

MĐKC: mức độ khuyến cáo; MĐCC: mức độ chứng cứ

3.2. Thuốc ức chế beta

CÁC THUỐC CHỐNG ĐAU THẮT NGỰC/THIẾU MÁU CỤC BỘ CƠ TIM

Nitroglycerine dạng xịt và ngậm dưới lưỡi cung cấp tác dụng giảm đau thắt ngực khi gắng sức ngay tức thì. Nitroglycerin dạng xịt tác dụng nhanh hơn nitroglycerin ngậm dưới lưỡi [42].

Tại thời điểm khởi phát triệu chứng đau thắt ngực, bệnh nhân nên nghỉ ngơi ở tư thế ngồi (tư thế đứng thúc đẩy ngất và nằm xuống làm tăng hồi lưu tĩnh mạch và tiền tải) và sử dụng nitroglycerin (viên 0,3 – 0,6 mg ngậm dưới lưỡi và không nuốt, hoặc 0,4 mg xịt vào lưỡi và không nuốt hoặc hít) mỗi 5 phút đến khi hết đau hoặc tối đa 1,2 mg được sử dụng trong vòng 15 phút. Trong khung thời gian này, nếu đau thắt ngực kéo dài, điều trị y khoa cần được tiến hành ngay lập tức. Nitroglycerine có thể được điều trị dự phòng trước các hoạt động thể lực có thể gây ra đau thắt ngực. Isosorbide dinitrate (5 mg ngậm dưới lưỡi) có thời gian khởi phát tác dụng hơi chậm hơn nitroglycerine do chuyển hóa ở gan thành mononitrate. Tác dụng của isosorbide dinitrate có thể kéo dài ≤ 1 giờ nếu thuốc được ngậm dưới dưỡi hoặc kéo dài vài giờ nếu thuốc được sử dụng bằng đường uống.

3.3. Thuốc ức chế canxi

Dạng nitrat tác dụng dài (như nitroglycerine, isosorbide dinitrate, isosorbide mononitrate) nên được xem xét như điều trị hàng thứ hai để giảm đau thắt ngực khi khởi trị với với thuốc ức chế beta hoặc ức chế canxi non-dihydropyridine(non-DHP) bị chống chỉ định, dung nạp kém hoặc không đủ kiểm soát triệu chứng. Thực ra, y văn có khoảng trống dữ liệu so sánh nitrat với thuốc ức chế beta hoặc ức chế canxi để rút ra các kết luận chắc chắn về hiệu quả tương đối của các thuốc [19]. Khi được sử dụng trong khoảng thời gian dài, nitrat tác dụng dài có thể gây ra sự dung nạp với mất hiệu quả, cần kê đơn khoảng thời gian 10 – 14 giờ không sử dụng hoặc liều thấp nitrat. Nitroglycerin có thể được điều trị đường uống hoặc qua da thông qua hệ thống dán phóng thích chậm. Tính khả dụng sinh học của isosorbide dinitrate phụ thuộc vào sự biến thiên giữa các các thể về chuyển hóa gan và nhìn chung thấp hơn tính khả dụng sinh học của isosorbide mononitrate (chất chuyển hóa hoạt động) với khả dụng sinh học 100%. Điều chỉnh liều cần thiết với tất cả các dạng để đạt kiểm soát tối đa các triệu chứng với liều dung nạp được. Ngưng thuốc nên được giảm dần và không ngưng đột ngột để tránh tăng đau thắt ngực dội ngược. Tác dụng phụ thường gặp nhất là tụt huyết áp, đau đầu và nóng bừng mặt. Chống chỉ định bao gồm bệnh cơ tim phì đại, hẹp van động mạch chủ nặng và điều trị đồng thời ức chế phosphodiesterase (như sildenafil, tadalafil, orvardenafil) hoặc riociguat.

3.3.1. Thuốc non-dihydropyridine (ức chế canxi giảm tần số tim)

Liều thuốc ức chế beta nên được điều chỉnh để giới hạn tần số tim 55 – 60 lần/phút khi nghỉ. Ngưng điều trị nên được giảm dần và không nên ngưng đột ngột. Thuốc ức chế beta có thẻ được phối hợp với thuốc ức chế canxi DHP để giảm nhịp tim nhanh do DHP, nhưng giá trị lâm sàng tăng thêm không chắc chắn.

Thận trọng được cảnh báo khi phối hợp thuốc ức chế beta với verapamil hoặc diltiazem do có thể gây ra suy tim nặng hơn, nhịp tim chậm quá mức và/hoặc block nhĩ thất. Sự phối hợp thuốc ức chế beta với nitrat làm giảm nhịp tim nhanh do phản xạ của nitrat. Những tác dụng phụ chính của thuốc ức chế beta là mệt mỏi, trầm cảm, nhịp tim chậm, block tim, co thắt phế quản, co thắt động mạch ngoại biên, tụt huyết áp tư thế, bất lực và che dấu các triệu chứng hạ đường huyết.

3.3.2. Thuốc dihydropyridine

Trong khi cải thiện triệu chứng và thiếu máu cục bộ cơ tim, thuốc ức chế canxi không giảm các kết cục bệnh tật nặng hoặc tử vong ở bệnh nhân hội chứng vành mạn.

3.4. Trimetazidine

Diltiazem. Diltiazem với ít tác dụng phụ, có những thuận lợi so với verapamil trong điều trị đau thắt ngực. Như verapamil, thuốc này tác dụng bằng cách dãn mạch ngoại biên, giảm co thắt mạch vành do gắng sức, tác dụng giảm co bóp cơ tim trung bình và ức chế nút xoang. Y văn chưa có các nghiên cứu kết cục so sánh diltiazem và verapamil.

Ở một số bệnh nhân chọn lọc, thuốc non-DHP có thể phối hợp với ức chế beta để điều trị đau thắt ngực. Tuy nhiên, trong những trường hợp như thế, bệnh nhân phải được theo dõi sát sự dung nạp về nhịp tim chậm quá mức hoặc các dấu hiệu của suy tim. Ức chế canxi non-DHP không được khuyến cáo ở bệnh nhân rối loạn chức năng thất trái.

Nifedipine tác dụng dài. Đây là thuốc dãn động mạch mạnh với ít tác dụng phụ nặng. Nifedipine tác dụng dài đã được kiểm định tốt ở các bệnh nhân đau thắt ngực có tăng huyết áp khi phối hợp với ức chế beta. Trong thử nghiệm lớn có đối chứng với giả dược ACTION (A Coronary disease Trial Investigating Outcome with Nifedipine gastrointestinal therapeutic system), bổ sung nifedipine tác dụng dài [60 mg 1 lần/ngày] vào điều trị thường quy đau thắt ngực không có tác dụng trên sống còn với không có biến cố tim mạch nặng [32]. Nifedipine tác dụng dài được chứng minh an toàn và giảm nhu cầu tái thông mạch vành và can thiệp tim mạch. Các chống chỉ định tương đối của nifedipine thì ít (hẹp động mạch chủ nặng, bệnh cơ tim phì đại tắc nghẽn hoặc suy tim) và phối hợp thận trọng với ức chế beta thường khả thi và có thể đạt được. Tác dụng phụ dãn mạch bao gồm đau đầu và phù mắt cá chân.

Amlodipine. Thời gian bán hủy rất dài của amlodipine và khả năng dung nạp tốt làm thuốc này trở thành thuốc chống đau thắt ngực và thuốc hạ áp hiệu quả một lần mỗi ngày, tách biệt với các thuốc hai hoặc ba lần mỗi ngày. Tác dụng phụ ít, chủ yếu phù mắt cá chân. Ở các bệnh nhân hội chứng mạch vành mạn và huyết áp bình thường (khoảng 75% dùng ức chế beta), amlodipine 10 mg/ngày giảm tái thông mạch vành và nhập viện vì đau thắt ngực trong một thử nghiệm 24 tháng [28]. Thiếu máu cục bộ cơ tim do gắng sức được giảm hiệu quả bởi amlodipine 5 mg được điều chỉnh đến 10 mg hơn ức chế beta atenolol 50 mg/ngày và sự phối hợp giữa hai thuốc này thậm chí tốt hơn [16]. Tuy nhiên, phối hợp ức chế canxi và ức chế beta thường chưa tối ưu, thậm chí trong các nghiên cứu báo cáo đau thắt ngực ổn định khi gắng sức được điều trị tối ưu.

Trimetazidine có đặc điểm tác dụng phụ trung tính trên huyết động. Trimetazidine là dẫn xuất piperazine. Trimetazidine tăng dung nạp của tế bào với thiếu máu cục bộ bằng cách ức chế 3-ketoacyl-CoA thiolase ở ty thể và do đó tăng chuyển hóa glucose. Vì thế, trimetazidine tác động trực tiếp đưa pyrovate vào ty thể, dẫn đến sản xuất ít proton và acid lactic từ cơ tim thiếu máu cục bộ và nhiều ATP hơn từ bào tương trong điều kiện kỵ khí. Kết quả của tác dụng này là giảm oxy hóa acid béo và tăng sử dụng glucose bởi cơ tim thiếu máu cục bộ. Những ảnh hưởng chuyển hóa này đã được khẳng định trong tình huống lâm sàng khi điều trị trimetazidine trong 3 tháng tăng 33% nồng độ phosphate năng lượng cao ở cơ tim của bệnh nhân suy tim [15]. Các tác dụng giảm đau thắt ngực trên lâm sàng của trimetazidine đã được kiểm định trong các nghiên cứu ở bệnh nhân thiếu máu cục bộ cơ tim mạn tính như đơn trị hay phối hợp với ức chế canxi hoặc ức chế beta [31]. Nhìn chung, tác dụng phụ của trimetazidine ít và khả năng dung nạp tốt.

3.5. Ivaradine

Vào cuối thập niên 1960, trimetazidine được đề nghị sử dụng ở bệnh nhân đau thắt ngực và sử dụng thành công ở một số lượng nhỏ bệnh nhân mặc dù cơ chế tác dụng chính xác trong giảm đau thắt ngực chưa rõ ràng tại thời điểm đó. Sau đó, các tác dụng của trimetazidine được so sánh với propranolol trong một nghiên cứu đa trung tâm, mù đôi, nhóm song song ở 149 bệnh nhân nam đau thắt ngực ổn định [7]. Sau 3 tháng, hiệu quả giảm đau thắt ngực tương đương nhau ở nhóm trimetazidine và nhóm proparanolol. Hai nhóm không khác nhau có ý nghĩa về số cơn đau thắt ngực mỗi tuần, thời gian gắng sức hoặc thời gian đến lúc ST chênh xuống 1 mm. Các kết quả tương tự cũng được phát hiện khi so sánh trimetazidine với nifedipine [ 6].

Không chỉ trong các thử nghiệm lâm sàng, trong nghiên cứu thế giới thực như CHOICE-2, trimetazidine giảm tần suất cơn đau thắt ngực và sử dụng nitrate tác dụng ngắn có ý nghĩa thống kê (p < 0,0001) từ 5,36 ± 5,38 xuống 1,12 ± 1,7 cơn đau/tuần và từ 5,12 ± 5,23 xuống 0,87 ± 1,43 lần sử dụng/tuần. Cả hai tác dụng này giảm có ý nghĩa ngay từ tuần điều trị thứ 2 [17].

Bằng cách ức chế kênh If, ivabradine giảm độ dốc pha khử cực tâm trương chậm của điện thế động ở các tế bào nút xoang, do đó giảm chọn lọc tần số tim. Ức chế If phụ thuộc vào liều sử dụng, và giảm tần số tim với ivabradin nhiều hơn khi tần số tim ban đầu cao, và thấp hơn khi tần số tim ban đầu thấp. Ivabradine không có tác dụng giảm co bóp cơ tim. Giảm tần số tim do ivabradine tương tự như ức chế beta nhưng duy trì dãn động mạch vành trong lúc gắng sức [35]. Ngoài ra, ivabradin tăng dự trữ lưu lượng động mạch vành và tưới máu tuần hoàn bàng hệ, thúc đẩy sự phát triển của tuần hoàn bàng hệ và duy trì chức năng nội mô ở các bệnh nhân đau thắt ngực ổn định [18],[38]. Tác dụng giảm đau thắt ngực của ivabradine đã được báo cáo ở một số thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so với giả dược/các hoạt chất khác và phối hợp với ức chế beta cũng như ở các nghiên cứu thế giới thực phản ánh thực hành lâm sàng hàng ngày [39],[41].

Hiệu quả giảm đau thắt ngực của ivabradine tương tự với các nhóm thuốc chống thiếu máu cục bộ cơ tim khác. Ivabradine đã được báo cáo không thua kém atenolol hoặc amlodipine trong điều trị đau thắt ngực và thiếu máu cục bộ cơ tim ở các bệnh nhân hội chứng mạch vành mạn.

3.6. Nicorandil

Ivabradine mang lại những lợi ích bổ sung khi được sử dụng phối hợp với các thuốc chống thiếu máu cục bộ cơ tim khác (ngoại trừ diltiazem và verapamil) bao gồm ức chế beta [39]. Phối hợp ivabradine 7,5 mg 2 lần/ngày với atenolol kiểm soát tần số tim và triệu chứng đau thắt ngực tốt hơn. Tác dụng cộng hợp giữa ức chế beta và ivabradine cho thấy ở các bệnh nhân đang điều trị với ức chế beta vẫn còn triệu chứng, bổ sung ivabradine hiệu quả hơn tăng liều ức chế beta [2].

Dữ liệu thử nghiệm SIGNIFY [13] khẳng định rằng ivabradine cải thiện các triệu chứng đau thắt ngực ổn định ở bệnh nhân với phân suất tống máu thất trái bảo tồn. Ủy Ban Đánh Giá Nguy Cơ Cảnh Giác Dược của Cơ Quan Dược Châu Âu (European Medicines Agency) kết luận rằng sau khi đánh giá dữ liệu SIGNIFY, liều ivabradine thích hợp (đến 7,5 mg hai lần/ngày) là chọn lựa điều trị hữu ích giảm các triệu chứng và cải thiện chất lượng cuộc sống ở các bệnh nhân đau thắt ngực ổn định thích hợp với nhịp xoang ≥ 70 lần/phút không thể dung nạp hoặc triệu chứng không được kiểm soát đầy đủ với ức chế beta [9].

Thử nghiệm BEAUTIFUL [11,12] đánh giá ảnh hưởng của ivabradine trên các kết cục lâm sàng. Mặc dù ivabradine không cải thiện kết cục chính (phối hợp tử vong do tim mạch và nhập viện do nhồi máu cơ tim hoặc suy tim mới khởi phát hoặc nặng hơn) nhưng trong một phân tích dưới nhóm đã xác định trước ở bệnh nhân đau thắt ngực ổn định tại thời điểm ban đầu, ivabradine giảm tỉ lệ nhồi máu cơ tim [14].

Phân tích vào năm 2016 ở các bệnh nhân suy tim do bệnh tim thiếu máu cục bộ trong thử nghiệm SHIFT cho thấy rằng các lợi ích kết cục trên tử vong do tim mạch và nhập viện do suy tim của ivabradine được duy trì trong thời gian theo dõi 22,9 tháng.

Nicorandil là dẫn xuất nitrate của nicotinamide, với các tác dụng chống đau thắt ngực tương tự nitrate hoặc ức chế beta. Các tác dụng phụ gồm buồn nôn, nôn và có thể loét miệng, ruột và niêm mạc nặng.

4. KẾT LUẬN

Ranolazine là thuốc ức chế chọn lọc dòng sodium muộn vào trong tế bào. Tác dụng phụ gồm có hoa mắt, buồn nôn và táo bón. Ngoài ra, ranolazine gây ra QTc dài, và do đó nên được sử dụng thận trọng ở bệnh nhân QT dài hoặc đang sử dụng các thuốc kéo dài QT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trong thử nghiệm có đối chứng giả dược 6.560 bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp không ST chênh lên, bổ sung ranolazine vào điều trị chuẩn không chứng minh hiệu quả trong giảm kết cục hiệu quả chính gồm tử vong do tim mạch, nhồi máu cơ tim hoặc thiếu máu cục bộ tái phát [26]. Tuy nhiên, phân nhóm tương đối lớn các bệnh nhân đau thắt ngực mạn tính (n = 3565) giảm có ý nghĩa thiếu máu cục bộ cơ tim tái phát, đau thắt ngực nặng hơn và sự tăng cường điều trị chống đau thắt ngực [43]. Trong một thử nghiệm có đối chứng giả dược khác ở các bệnh nhân đái tháo đường và bệnh động mạch vành nhận một hoặc hai thuốc chống đau thắt ngực, ranolazine giảm tần suất đau thắt ngực và sử dụng nitroglycerin dưới lưỡi với khả năng dung nạp tốt [22]. Trong thử nghiệm RIVER-PCI (Ranolazine for Incomplete Vessel Revascularization Post Percutaneous Coronary Intervention), ranolazine không giảm kết cục gộp tái thông mạch vành do thiếu máu cục bộ hoặc nhập viện không tái thông mạch vành ở 2651 bệnh nhân với tiền sử đau thắt ngực mạn tính và tái thông mạch vành không hoàn toàn sau can thiệp mạch vành qua da gồm bệnh nhân có và không có can thiệp mạch vành qua da vì chỉ định bệnh động mạch, cũng không giảm triệu chứng đau thắt ngực tại thời điểm 1 năm [1].

Tối ưu hóa điều trị các thuốc chống đau thắt ngực/thiếu máu cục bộ cơ tim cho các bệnh nhân hội chứng mạch vành mạn là vấn đề quan trọng để đạt được mục tiêu cải thiện triệu chứng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Về mặt y học chứng cứ, tất cả các thuốc chống đau thắt ngực/thiếu máu cục bộ cơ tim có hiệu quả và mức độ chứng cứ tương đương nhau. Tiếp cận “kim cương” hay hướng dẫn của Hội Tim Châu Âu năm 2019 là khung tham khảo để cá thể hóa điều trị sử dụng các thuốc chống đau thắt ngực/thiếu máu cục bộ cơ tim đã có, giúp các bác sĩ lâm sàng chọn lựa thuốc tốt nhất cho các bệnh nhân. Việc lựa chọn thuốc cần dựa trên đặc điểm lâm sàng, sinh lý bệnh, bệnh đồng mắc, chống chỉ định, tác dụng phụ, tương tác thuốc, sự ưa thích của bệnh nhân và sự sẵn có của thuốc tại cơ sở y tế nhằm giảm gánh nặng bệnh tật cho người bệnh hội chứng mạch vành mạn.

Alexander KP, Weisz G, Prather K, et al. Effects of ranolazine on angina and quality of life after percutaneous coronary intervention with incomplete revascularization: results from the Ranolazine for Incomplete Vessel Revascularization (RIVER-PCI) Trial. Circulation 2016; 133: 39-47.

Amosova E, et al. Efficacy of ivabradine in combination with beta-blocker versus uptitration of beta-blocker in patients with stable angina. Cardiovasc Drugs Ther 2011;25: 531-537.

Bangalore S, Steg G, Deedwania P, et al; REACH Registry Investigators. b-Blocker use and clinical outcomes in stable outpatients with and without coronary artery disease. JAMA 2012;308:1340-1349.

Belsey J, Savelieva I, Mugelli A, Camm AJ. Relative efficacy of antianginal drugs used as add-on therapy in patients with stable angina: a systematic review and meta-analysis. Eur J Prev Cardiol 2015;22:837-848.

Chazov EI, Lepakchin VK, zharova EA, et Trimetazidine in Angina Combination Therapy – the TACT study: trimetazidine versus conventional treatment in patients with stable angina pectoris in a randomized, placebo-controlled, multicenter study. Am J Ther 2005;12(1):35-42.

Dalla-Volta S, Maraglino G, Della-Valentina P, et al. Comparison of trimetazidine with nifedipine in effort angina: a double-blind, crossover Cardiovasc Drugs Ther 1990;4(suppl 4):853-839.

Detry JM, Sellier P, Pennaforte S, et al. Trimetazidine: a new concept in the treatment of Comparison with propranolol in patients with stable angina. Trimetazidine European Multicenter Study Group. Br J Clin Pharmacol 1994;37(3):279-88.

European Medicines Agency. Assessment Report for trimetazidine containing medicinal products. https://www.ema.europa.eu/en/documents/referral/trimeta zidine-article-31-referral-assessment-report_en.pdf.

European Medicines Agency: Pharmacovigilance Risk Assessment Committee (PRAC). Assessment report: ivabradine. EMA http://www.ema.europa.eu/docs/en_ GB/document_library/EPAR__Assessment_Report_Variation/human/000597/WC500182140.pdf (2014).

Ferrari R, et al. Expert consensus document: A ‘diamond’ approach to personalized treatment of angina. Nature Reviews Cardiology. 15, 120-132 (2018).

Fox K, et al. Heart rate as a prognostic risk factor in patients with coronary artery disease and left-ventricular systolic dysfunction (BEAUTIFUL): a subgroup analysis of a randomised controlled trial. Lancet 2008; 372: 817-821.

Fox K, et al. Ivabradine for patients with stable coronary artery disease and left-ventricular systolic dysfunction (BEAUTIFUL): a randomised, double-blind, placebo-controlled trial. Lancet 2008; 372: 807-816.

Fox K, et al. Ivabradine in stable coronary artery disease without clinical heart failure. N Engl J Med 2014; 371: 1091-1099.

Fox K, et al. Relationship between ivabradine treatment and cardiovascular outcomes in patients with stable coronary artery disease and left ventricular systolic dysfunction with limiting angina: a subgroup analysis of the randomized, controlled BEAUTIFUL trial. Eur Heart J 2009; 30: 2337-2345.

Fragasso G, et al. Effects of metabolic modulation by trimetazidine on left ventricular function and phosphocreatine/adenosine triphosphate ratio in patients with heart failure. Eur Heart J 2006; 27: 942-948.

Frishman WH, Glasser S, Stone P, et al. Comparison of controlled-onset, extended-release verapamil with amlodipine and amlodipine plus atenolol on exercise performance and ambulatory ischemia in patients with chronic stable angina pectoris. Am J Cardiol 1999;83:507-514.

Glezer M, CHOICE-2 study investigators. Real-world Evidence for the Antianginal Efficacy of Trimetazidine from the Russian Observational CHOICE-2 Study. Adv Ther.2017 Feb 20. doi: 10.1007/s12325-017-0490-2.

Gloekler, S. et al. The effect of heart rate reduction by ivabradine on collateral function in patients with chronic stable coronary artery disease. Heart 2014;100: 160-166.

Heidenreich PA, McDonald KM, Hastie T, et al. Meta-analysis of trials comparing beta-blockers, calcium antagonists, and nitrates for stable angina. JAMA 1999;281:1927-1936.

IONA Study Group. Effect of nicorandil on coronary events in patients with stable angina: the Impact Of Nicorandil in Angina (IONA) randomised trial. Lancet 2002;359:1269-1275.

Knuuti J, et al. 2019 ESC Guidelines for the diagnosis and management of chronic coronary syndromes. European Heart Journal (2019); 00: 1-71. doi:10.1093/eurheartj/ehz425.

Kosiborod M, Arnold SV, Spertus JA, et al. Evaluation of ranolazine in patients with type 2 diabetes mellitus and chronic stable angina: results from the TERISA randomized clinical trial (Type 2 Diabetes Evaluation of Ranolazine in Subjects With Chronic Stable Angina). J Am Coll Cardiol 2013;61:2038-2045.

Manchanda SC, Krishnaswami Combination treatment with trimetazidine and diltiazem in stable angina pectoris. Heart 1997;78(4):353-357.

Manchanda Treatment of stable angina with low dose diltiazem in combination with the metabolic agent trimetazidine. Int J Cardiol 2003;88(1):83-89.

Montalescot G, et al. 2013 ESC guidelines on the management of stable coronary artery disease: the Task Force on the management of stable coronary artery disease of the European Society of Cardiology. Eur. Heart J. 34, 2949-3003 (2013).

Morrow DA, Scirica BM, Karwatowska-Prokopczuk E, et al; MERLIN-TIMI 36 Trial Investigators. Effects of ranolazine on recurrent cardiovascular events in patients with non-ST-elevation acute coronary syndromes: the MERLIN-TIMI 36 randomized trial. JAMA 2007;297:1775-1783.

Motivala AA, Parikh V, Roe M, et al. Predictors, trends, and outcomes (among older patients ≥ 65 years of age) associated with beta-blocker use in patients with stable angina undergoing elective percutaneous coronary intervention: insights From the NCDR registry. JACC Cardiovasc Interv 2016;9:1639-1648.

Nissen SE, Tuzcu EM, Libby P, et al; CAMELOT Investigators. Effect of antihypertensive agents on cardiovascular events in patients with coronary disease and normal blood pressure: the CAMELOT study: a randomized controlled trial. JAMA 2004;292:2217-2225.

Noman A, Ang DS, Ogston S, et al. Effect of high-dose allopurinol on exercise in patients with chronic stable angina: a randomised, placebo controlled crossover trial. Lancet 2010;375:2161-2167.

Okafor ON, Farrington K, Gorog DA. Allopurinol as a therapeutic option in cardiovascular disease. Pharmacol Ther 2017;172:139-150.

Peng S, et al. The efficacy of trimetazidine on stable angina pectoris: a meta-analysis of randomized clinical trials. Int J Cardiol 2014; 177: 780-785.

Poole-Wilson PA, Lubsen J, Kirwan BA, et al, Coronary disease Trial Investigating Outcome with Nifedipine gastrointestinal therapeutic system investigators. Effect of long-acting nifedipine on mortality and cardiovascular morbidity in patients with stable angina requiring treatment (ACTION trial): randomised controlled trial. Lancet 2004;364:849-857.

Puymirat E, Riant E, Aissaoui N, et al. b blockers and mortality after myocardial infarction in patients without heart failure: multicentre prospective cohort study. BMJ 2016;354:i4801.

Rehnqvist N, Hjemdahl P, Billing E, et al. Effects of metoprolol vs verapamil in patients with stable angina pectoris. The Angina Prognosis Study in Stockholm (APSIS). Eur Heart J 1996;17:76-81.

Simon L, et al. Coronary and hemodynamic effects of S 16257, a new bradycardic agent, in resting and exercising conscious dogs. J Pharmacol Exp Ther1995; 275: 659-666.

Singh JA, Yu S. Allopurinol reduces the risk of myocardial infarction (MI) in the elderly: a study of Medicare claims. Arthritis Res Ther 2016;18:209.

Szwed H, Sadowski z, Elikowski W, et Combination treatment in stable effort angina using trimetazidine and metoprolol: results of a randomized, double-blind, multicentre study (TrIMPOL II). TrIMetazidine in POLand. Eur Heart J. 2001;22(24):2267-2274.

Tagliamonte E, et al. Ivabradine and bisoprolol on doppler-derived coronary flow velocity reserve in patients with stable coronary artery disease: beyond the heart rate. Adv Ther 2015; 32: 757-767.

Tardif JC, et al. Efficacy of the If current inhibitor ivabradine in patients with chronic stable angina receiving beta-blocker therapy: a 4-month, randomized, placebo-controlled trial. Eur Heart J 2009; 30: 540-548.

Vitale C, Spoletini I, Malorni W, et al. Efficacy of trimetazidine on functional capacity in symptomatic patients with stable exertional angina-the VASCO-angina Int J Cardiol 2013;168(2): 1078-1081.

Werdan, K. et al. Effectiveness of ivabradine treatment in different subpopulations with stable angina in clinical practice: a pooled analysis of observational studies. Cardiology 135, 141-150 (2016).

Wight LJ, VandenBurg MJ, Potter CE, Freeth CJ. A large scale comparative study in general practice with nitroglycerin spray and tablet formulations in elderly patients with angina pectoris. Eur J Clin Pharmacol 1992;42:341-342.

Wilson SR, Scirica BM, Braunwald E, et al. Efficacy of ranolazine in patients with chronic angina observations from the randomized, double-blind, placebo-controlled MERLIN-TIMI (Metabolic Efficiency With Ranolazine for Less Ischemia in Non-ST-Segment Elevation Acute Coronary Syndromes) 36 Trial. J Am Coll Cardiol 2009;53:1510-1516.

Zhang H, Yuan X, Zhang H, et al. Efficacy of long-term beta-blocker therapy for secondary prevention of long-term outcomes after coronary artery bypass grafting surgery. Circulation 2015;131: 2194-2201.

Thiếu Máu Trong Suy Thận Mạn: Nguyên Nhân, Triệu Chứng Và Điều Trị

Thiếu máu trong suy thận mạn là biểu hiện phổ biến mà người bệnh gặp phải. Tình trạng này cho thấy chức năng thận bị suy giảm khá nhiều. Việc nắm rõ nguyên nhân, triệu chứng và biện pháp xử lý sẽ giúp tránh được các biến chứng nguy hiểm. Nếu bạn đang quan tâm, đừng bỏ qua bài viết này để nắm bắt được những thông tin hữu ích nhất.

Thiếu máu do suy thận mạn là như thế nào?

Những người bị suy thận mạn, mức lọc cầu thận sẽ giảm theo tình trạng bệnh. Lúc này, người bệnh có thể gặp phải các triệu chứng như tăng huyết áp, mệt mỏi, chóng mặt, kém tập trung, rối loạn điện giải…

Trong đó, thiếu máu do suy thận mạn là tình trạng cực kỳ phổ biến. Đặc biệt, với người bị đái tháo đường, thiếu máu khởi phát sớm và có mức độ nghiêm trọng hơn.

Tình trạng thiếu máu trong suy thận mạn xảy ra khi mức lọc cầu thận nhỏ hơn 20 mL/phút /1,73 m2 (đối với nam giới) hoặc nhỏ hơn 30 mL/phút/1,73 m2 (đối với nữ giới).

Chức năng thận càng suy yếu thì tình trạng suy thận ngày càng nghiêm trọng. Do đó, đây cũng là tiêu chí để các bác sĩ đánh giá, phân biệt các giai đoạn suy thận. Có đến 43% người bệnh ở giai đoạn 1 – 2 bị thiếu máu. Con số này tăng lên 57% với người bị suy thận mạn giai đoạn 3 – 5.

Nguyên nhân, triệu chứng thiếu máu do suy thận mạn

Thận là cơ quan ảnh hưởng đến quá trình sản xuất erythropoietin – chất kích thích tủy xương, thúc đẩy quá trình sản sinh hồng cầu. Tuy nhiên, đối với bệnh nhân suy thận mạn, chức năng thận suy yếu làm thiếu hụt lượng erythropoietin.

Khi đó, hồng cầu không biệt hóa gây ra thiếu máu. Do đó, mức độ suy thận càng nặng thì tình trạng thiếu máu càng nghiêm trọng. Đặc biệt, trong trường hợp người bị suy thận mạn cần chạy thận nhân tạo sẽ mất rất nhiều máu.

Bên cạnh đó, một trong những lý do gây thiếu máu trong suy thận là thiếu sắt tương đối hoặc thiếu sắt tuyệt đối. Thiếu sắt tuyệt đối xảy ra do mất máu, chảy máu do ure cao, loạn sản mạch máu ruột. Trong khi đó, thiếu sắt tương đối là do cơ thể không huy động đủ sắt cung cấp cho quá trình sản xuất hồng cầu.

Trong một số trường hợp, bệnh nhân suy thận mạn còn bị tan máu. Nguyên nhân là do hồng cầu ít sắt nên dễ bị vỡ và thực bào, màng hồng cầu giảm khả năng biến dạng. Ngoài ra, khi tiếp xúc với những chất gây ô nhiễm nguồn nước như chloramines, arsenic, kẽm…cũng dẫn đến tan máu.

Bên cạnh đó, người bệnh thường chán ăn, ăn uống thiếu dinh dưỡng khiến cơ thể thiếu hụt lượng sắt, axit folic, vitamin B12…. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến thiếu máu.

Ngoài ra, tình trạng thiếu máu do suy thận còn do một số nguyên nhân sau:

Người bệnh bị tiểu ra máu gây mất máu.

Thời gian sống của hồng cầu ngắn.

Viêm nhiễm ở thận, tim, phổi, gan…

Một số bệnh huyết học như suy tủy, xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch…

Người bệnh bị suy tuyến giáp và tuyến cận giáp.

Sử dụng thuốc có tác dụng phụ tán huyết.

Khi bị thiếu máu trong suy thận mạn, người bệnh sẽ xuất hiện những triệu chứng sau đây:

Thường xuyên cảm thấy chóng mặt, khó thở và đau tức ngực.

Chán ăn, da xanh xao.

Mệt mỏi, cơ thể không có sức lực.

Tim đập nhanh bất thường.

Đau đầu, hay bị mất tập trung.

Người bệnh bị rụng tóc.

Móng không bóng, lưỡi mất gai.

Thiếu máu trong suy thận mạn có nguy hiểm không?

Mức độ thiếu máu tỷ lệ thuận với tình trạng bệnh suy thận mạn. Nếu không được xử lý kịp thời, người bệnh rất dễ gặp phải các biến chứng nguy hiểm như:

Cảm thấy đau đầu, chóng mặt, mất ngủ.

Hay quên, mất tập trung.

Nhịp tim rối loạn thất thường, có trường hợp còn xuất hiện âm thổi ở tim.

Người bệnh bị suy dinh dưỡng.

Thiếu máu kéo dài gây suy tim.

Mắc bệnh nhiễm trùng nguy hiểm.

Da khô, dễ bong tróc và viêm nhiễm.

Rối loạn cương dương ở nam giới và suy giảm ham muốn ở nữ giới.

Hiếm muộn, vô sinh.

Điều trị thiếu máu trong suy thận mạn

Trước tiên, bác sĩ sẽ xem xét tiền sử bệnh án để xác định tình trạng thiếu máu trong suy thận mạn. Sau đó, bằng những xét nghiệm chuyên sâu như xét nghiệm máu, mất máu trong phân để tìm ra nguyên nhân. Từ đó mới có thể chỉ định biện pháp điều trị phù hợp.

Tiêm thuốc kích thích tạo hồng cầu (ESA)

Đây là phương pháp được xem như “cuộc cách mạng” điều trị thiếu máu trong suy thận mạn. Hiện nay có 3 nhóm ESA:

ESA tác dụng ngắn: như EPO alpha (eprex, epogen, epokin); EPO beta (neorecormon). Thực hiện tiêm 2 – 3 lần/tuần.

ESA tác dụng trung bình: như Darbepoetin alpha – Aranesp. Thực hiện tiêm với tần suất 1 – 2 lần/2 tuần.

ESA tác dụng kéo dài: như Mircera. Thực hiện tiêm với tần suất 1 lần/4 tuần.

Theo các bác sĩ chuyên khoa thận, người bệnh áp dụng phương pháp này cần chú ý thực hiện khi hemoglobin (Hb) máu < 10g/dl và ổn định.

Phải có phác đồ và loại thuốc phù hợp.

Nên cung cấp đủ sắt, vitamin và folate.

Khi bị thiếu máu nặng vẫn nên truyền máu.

Sau khi thực hiện ESA, nồng độ Hb mục tiêu sẽ là 115g/l. Nếu vượt quá 103g/l thì ngừng liệu pháp.

Cung cấp lượng sắt

Sắt là hoạt chất cực kỳ quan trọng giúp bổ sung máu cho cơ thể. Hơn nữa, sắt giúp cải thiện hệ miễn dịch, sự nhận thức và điều nhiệt. Do đó, những người bị thiếu máu trong suy thận do thiếu sắt thường được chỉ định 1 trong 2 cách sau:

Dùng viên uống: như ferrovit, doppelherz aktiv haemo vital… Tuy khả năng đáp ứng kém hơn sắt tĩnh mạch nhưng sắt uống có giá thành thấp, rất tiện lợi nên thường được sử dụng. Trường hợp đáp ứng kém là do mất sắt hấp thụ qua ruột, sự kết hợp của sắt với hồng cầu muộn (33 ngày), nồng độ hepcidin cao gây ức chế hấp thụ sắt ở tá tràng.

Truyền sắt tĩnh mạch: bác sĩ có thể yêu cầu truyền sắt qua tĩnh mạch nếu không thể uống thuốc. Hiện nay có khá nhiều loại sắt để tiêm tĩnh mạch như sắt dextran, sắt sucrose, sắt gluconat. Sự kết hợp giữa sắt và hồng cầu nếu tiêm tĩnh mạch chỉ sau 8,6 ngày, rất hiệu quả so với phương pháp uống sắt. Khi truyền sắt, bác sĩ sẽ theo dõi người bệnh trong 60 phút và chuẩn bị phương án hồi sức để tránh những nguy cơ như sốc phản vệ, dị ứng cấp tính. Phương pháp này chống chỉ định với người bệnh bị nhiễm trùng toàn thân.

Thiếu máu trong suy thận phải làm sao? – Truyền máu

Đây là biện pháp phổ biến và có tác dụng nhanh chóng để giải quyết tình trạng thiếu máu. Bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện khi thiếu nhiều máu, mất máu cấp tính, thực hiện liệu pháp ESAS có nhiều rủi ro hoặc không hiệu quả. Tuy nhiên, trường hợp ghép thận thì không được thực hiện truyền máu để tránh nguy cơ mẫn cảm với thận mới.

Điều chỉnh chế độ sinh hoạt và ăn uống

Bên cạnh những cách trên, trong trường hợp người bệnh bị thiếu máu do chế độ ăn uống thiếu chất, bác sĩ sẽ yêu cầu tuân thủ một số nguyên tắc sau:

Bổ sung thực phẩm nhiều sắt như củ dền, rau cải xanh, thịt bò…

Bổ sung vitamin C để tăng cường sức khỏe, hấp thụ sắt và bảo vệ thành mạch. Người bệnh nên bổ sung các loại rau, củ quả màu xanh, tím, đỏ, vàng.

Cắt giảm mỡ động vật bởi chúng làm cho cholesterol trong máu tăng cao. Hãy thay thế bằng dầu mè, dầu oliu… tốt cho sức khỏe

Ăn nhiều tinh bột ít đường như bún, khoai lang, hủ tiếu, bột sắn dây…

Kiêng ăn muối khiến bệnh nặng hơn và tránh tình trạng phù nề.

Không dùng bia rượu, nước ngọt có ra, thuốc lá…

Hy vọng qua bài viết, bạn đọc đã hiểu rõ hơn về thiếu máu trong suy thận mạn. Để tránh các biến chứng và chấm dứt được tình trạng này, người bệnh cần tuyệt đối tuân thủ chỉ định từ bác sĩ. Đồng thời, chủ động tạo thói quen ăn uống, sinh hoạt khoa học để hỗ trợ điều trị bệnh hiệu quả.

Thiếu Máu Sau Sinh Liên Quan Đến Hội Chứng Sheehan

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến hội chứng Sheehan, vì trong quá trình mang thai, tuyến yên to ra và cần nhiều máu hơn bình thường. Do đó, khi sản phụ bị mất nhiều máu trong hoặc ngay sau sinh như đờ tử cung, vỡ tử cung, nhau cài răng lược… dẫn đến tụt huyết áp thì theo phản xạ, các mạch máu sẽ co lại để ưu tiên cấp máu cho các cơ quan quan trọng hơn ở các bộ phận não, tim, thận.

Từ đó, lượng máu cung cấp cho các cơ quan khác sẽ bị giảm mạnh. Vì nguồn máu không cung cấp đủ cho tuyến yên nên tuyến yên dễ bị hoại tử do thiếu máu kéo dài.

Sau sinh nếu sản phụ gặp phải hội chứng này sẽ có các triệu chứng nhẹ thì mất sữa, không có kinh nguyệt trở lại. Nặng có thể bị hôn mê, co giật do nồng độ natri trong máu bị tụt xuống, huyết áp thấp…do thiếu máu.

Nhưng các triệu chứng này dễ bị chẩn đoán nhầm sang các bệnh khác như suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh hay suy nhược sau sinh do thiếu máu dẫn đến sự cấp máu cho não và các cơ quan khác trong cơ thể bị giảm sút.

Nếu bệnh đi kèm với những căn bệnh khác như nhiễm khuẩn, phẫu thuật hoặc bị stress thì bệnh sẽ nặng hơn và sản phụ sẽ phải đối diện với những biến chứng nguy hiểm như: hôn mê, suy tuyến thượng thận cấp ba, hạ đường huyết, rối loạn điện giải.

Nguy hiểm hơn, nhiều bệnh nhân bị chẩn đoán nhầm sáng các bệnh khác như trụy mạch chưa rõ nguyên nhân hoặc sốc, viêm não, suy gan…

Điều trị và dự phòng

Tổn thương hoại tử tuyến yên trong hội chứng Sheehan là không hồi phục và việc điều trị chỉ dừng lại ở việc… bù các hormone của tuyến yên, tuyến giáp, tuyến thượng thận… cho bệnh nhân. Các thuốc được sử dụng bao gồm corticosteroides, levothyroxin (levoxyl, synthroid), estrogen, hormon tăng trưởng (GH)… có thể giúp cho bệnh nhân cải thiện đáng kể các triệu chứng.

Những phụ nữ sắp làm mẹ cần kiểm tra sức khỏe và khám thai định kỳ, có chế độ ăn uống và nghỉ ngơi hợp lý để vượt cạn thành công, tránh biến chứng mất máu cấp, tụt huyết áp nặng trong và sau khi sinh nở.

Hội chứng Sheehan là một bệnh lý nội tiết nặng và khá phức tạp nhưng nếu được điều trị đầy đủ thì bệnh nhân hoàn toàn có được cuộc sống khỏe mạnh và hạnh phúc. Điều quan trọng nhất là cần phát hiện sớm các bệnh nhân có nguy cơ cao do bị băng huyết sau đẻ. Một điều may mắn là nhờ những tiến bộ trong sản khoa nên căn bệnh này ngày càng ít gặp hơn và cũng được phát hiện sớm hơn. Ngoài ra bệnh nhân cũng nên uống thuốc đúng giờ và đầy đủ theo toa của bác sĩ để mau chóng khỏi bệnh.

Nguyên Nhân, Triệu Chứng Thiếu Máu Thiếu Sắt

Cung cấp sắt thiếu

Cung cấp sắt thiếu chủ yếu là do chế độ ăn thiếu sắt, dinh dưỡng không đúng cách, trẻ không bú sữa mẹ mà ăn sữa động vật, mẹ ăn kiêng khi đang cho con bú, (vì sắt trong sữa mẹ được hấp thu tốt khoảng 49%, trong khi sắt trong sữa bò chỉ được hấp thu 10 %). Cho trẻ ăn dặm quá trễ hoặc cho trẻ ăn không đủ chất, cho trẻ ăn kiêng khi bị bệnh kéo dài. Trong bữa ăn hàng ngày thiếu thức ăn nguồn gốc động vật. Trẻ ăn bột nhiều và kéo dài (trong bột có acid phytic và các phosphat gây giảm hấp thu Fe).

Những trẻ đẻ non, thiếu cân lúc đẻ hoặc do sinh đôi, lượng sắt dự trữ được cung cấp qua tuần hoàn nhau thai ít và những người mẹ có tiền sử chảy máu trước đẻ, thiếu máu thiếu sắt không cung cấp đủ sắt cần thiết cho thai nhi dẫn đến bé bị thiếu máu, thiếu sắt từ lúc mới sinh.

Hấp thu sắt kém

Trẻ có thể mắc các bệnh lí của đường tiêu hoá làm giảm khả năng hấp thụ sắt như: giảm độ toan dạ dày, suy dinh dưỡng, ỉa chảy kéo dài (làm ruột không hấp thu được thức ăn), hội chứng kém hấp thụ, dị dạng dạ dày – ruột, cắt dạ dày, bệnh celiac, nhiễm giun sán.

Mất sắt quá nhiều

Mất máu nhiều thường do các nguyên nhân chảy máu từ từ, mạn tính như các bệnh ở đường tiêu hoá (giun móc, loét dạ dày tá tràng, polyp ruột, trĩ), chảy máu cam, chảy máu sinh dục tiết niệu. Sắt chứa trong các tế bào máu đỏ, vì vậy nếu mất máu sẽ mất đi một số lượng sắt.

Nhu cầu sắt cao hơn lượng được cung cấp

Khi nhu cầu sắt tăng mà không được cung cấp sắt kịp thời, thường là giai đoạn cơ thể lớn nhanh,trẻ đẻ non, thấp cân, tuổi dậy thì, phụ nữ có thai… Lúc này sẽ rất dễ xảy ra thiếu máu.

Khi mang thai, hầu hết phụ nữ thường không có đủ lượng sắt dự trữ, nhất là ở 3 tháng giữa và 3 tháng cuối thai kỳ. Thiếu máu sẽ làm tăng nguy cơ đẻ non, tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở cả mẹ và con. Vì vậy, ngoài chế độ dinh dưỡng tốt trong thời kỳ mang thai, người mẹ cần bổ sung thêm sắt, B12, axit folic để giúp tăng cường quá trình tạo máu.

Trẻ em thiếu cân và sinh non, trẻ dưới 5 tuổi cũng có nguy cơ bị thiếu máu rất cao. Theo các chuyên gia, trong những năm đầu đời trẻ cần nhiều sắt cho quá trình tăng trưởng và tạo máu. Tuy nhiên do chế độ ăn hàng ngày của trẻ không cung cấp đầy đủ hay mất cân bằng các chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó, khi mang thai, nguy cơ người mẹ thiếu máu khá cao nên sinh ra các thế hệ trẻ thiếu máu.

Đối với trẻ vị thành niên, đặc biệt là vào giai đoạn dậy thì, cơ thể các em đang phát triển rất nhanh nên cần nhiều chất dinh dưỡng hơn, đặc biệt là chất sắt để tạo máu. Các em gái tuổi dậy thì dễ bị thiếu máu thiếu sắt nếu sợ mập và ăn kiêng hoặc bị mất máu qua kinh nguyệt. bên cạnh đó nhiều nghiên cứu cho thấy lượng sắt từ bữa ăn của người Việt Nam chỉ thỏa mãn 30-50% nhu cầu về chất này.

Chế độ ăn uống thiếu hụt, thừa chất này, thiếu chất kia trong các bữa ăn hàng ngày, lứa tuổi vị thành niên cũng là đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều của chứng bệnh thiếu máu, đặc biệt là nữ giới thường bị mất một lượng máu trong chu kỳ kinh nguyệt.

3. Triệu chứng thiếu máu thiếu sắt

Thiếu sắt là một bệnh hệ thống ảnh hưởng tới nhiều chức năng của các bộ phận. Bệnh thường xảy ra từ từ, thường ở trẻ từ 6 tháng , có thể xuất hiện sớm từ tháng thứ 2 – 3 ở trẻ đẻ non. Biểu hiện đầu tiên của trẻ thiếu máu là mệt mỏi, hay chóng mặt ù tai, ít hoạt động, da xanh xao, niêm mạc nhợt từ từ, số lượng hồng cầu giảm ít.. Nếu thiếu máu kéo dài, không được điều trị, thiếu máu nặng có thể biểu hiện tim to, khó thở, nhịp tim nhanh, nghe tim có tiếng thổi tâm thu.

Trẻ chậm phát triển cân nặng, chậm phát triển cơ thể. Ở tuổi học đường trẻ thường học chậm, kém tập trung. Thiếu máu kéo dài làm móng tay, móng chân nhợt, bẹt hoặc lõm, có khía, dễ gãy.

Biểu hiện ở tiêu hóa khá nhiều, trẻ kém ăn hay bị rối loạn tiêu hóa, lưỡi bị viêm, mất gai lưỡi, có thể có biểu hiện khó nuốt. Ở dạ dày có biểu hiện viêm, teo niêm mạc dạ dày và giảm độ toan dạ dày. Ở ruột có biểu hiện viêm ruột xuất tiết, teo một phần niêm mạc ruột, giảm hấp thu ở ruột.

Các triệu chứng do giảm sắt ở cơ (Myoglobin): Giảm trương lực cơ, giảm khả năng gắng sức, chậm biết ngồi, biết bò, biết đi.

Các triệu chứng rối loạn thần kinh do giảm sắt ở các men làm trẻ quấy khóc, ăn kém, ngủ ít ở trẻ nhỏ, trẻ lớn hay bị nhức đầu, chóng măt, ù tai, hay quên, kém minh mẫn.

4. Biến chứng của thiếu máu thiếu sắt

Ở tình trạng bình thường, thiếu máu thiếu sắt không gây ra biến chứng. Nhưng nếu bị nặng có thể gây ra một số biến chứng không tốt. Thiểu máu sẽ làm nhịp tim nhanh hoặc bất thường vì tim phải bơm máu nhiều hơn để cung cấp oxy trong máu khi đang bị thiếu máu. Những người bị động mạch vành nếu không kiếm soát được có thể gây đau thắt ngực.

Phụ nữ mang thai dễ bị sinh non, sinh con nhẹ cân và hệ quả kéo theo là những trẻ này thường bị thiếu máu thiếu sắt.

Ở trẻ sơ sinh và trẻ em, thiếu sắt dẫn đến thiếu máu và làm chậm quá trình tăng trưởng. Không đượcc điều trị kịp thời có thể dẫn đến sự chậm trễ về thể chất và tâm thần ở trẻ trong các hoạt động như đi bộ, chạy nhảy, nói chyện. Ngoài ra nó cũng làm tăng khả năng nhiễm độc chì và nhạy cảm với các nhiễm trùng hơn.

Bài viết đã đăng ký bản quyền nội dung số.Mọi sao chép phải tuân thủ quy định của NKB