Cập nhật thông tin chi tiết về Cách Chữa Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5 Bằng Đông Y mới nhất trên website Kidzkream.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cách chữa bệnh đau dây thần kinh số 5 – một căn bệnh với diễn biến phức tạp và gây ra những cơn đau đớn khủng khiếp cho người bệnh nhiều năm qua vẫn đang chờ đợi một đáp án thỏa đáng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ một tin vui về phương pháp điều trị đau dây thần kinh số 5 cho người bệnh.
Tìm hiểu về dây thần kinh số 5 và bệnh đau dây thần kinh số 5
Dây thần kinh số 5 là gì?
Bệnh đau dây thần kinh số 5 ảnh hưởng như thế nào?
Bệnh đau dây thần kinh số 5 có thể xảy ra do viêm đa dây thần kinh, tổn thương nền sọ, ảnh hưởng của bệnh zona thần kinh hoặc nhiều yếu tố khác. Cho đến nay, các nguyên nhân chính xác của căn bệnh này vẫn được coi là một ẩn số. Do đó cách chữa đau dây thần kinh số 5 cũng gặp khá nhiều khó khăn.
Tổn thương dây thần kinh số 5 chủ yếu xảy ra ở phụ nữ tuổi trung niên, nam giới cũng có khả năng bị bệnh nhưng tỉ lệ thấp hơn.
Bệnh thường gây ra những cơn đau đớn vùng mặt, cho dù chỉ kéo dài từ vài giây tới vài phút nhưng cũng vô cùng khủng khiếp. Đau thường xuất hiện khi vùng mặt bị kích thích như nói chuyện, cười, ăn uống… Sau cơn đau, người bệnh lại trở về trạng thái bình thường.
Chữa bệnh đau dây thần kinh số 5
Cách chữa bệnh đau dây thần kinh số 5 trước đây chủ yếu dựa vào thuốc giảm đau cùng thuốc chống động kinh và thuốc chống viêm. Có khoảng 70% các ca bệnh cho kết quả điều trị bệnh khá tốt trong thời gian đầu. Tuy nhiên cũng không ít bệnh nhân rơi vào tình trạng nhờn thuốc, điều trị lâu dài nhưng không thu được kết quả.
Khi bệnh nặng và các cơn đau kéo đến quá dữ dội, bệnh nhân có thể được chỉ định điều trị bệnh đau dây thần kinh số 5 bằng cách phẫu thuật cắt một phần dây thần kinh, phẫu thuật mở hoặc phá hủy hạch.
Hiện nay, thay vì sử dụng thuốc Tây hoặc phẫu thuật, người bệnh lại thường sử dụng thuốc Đông y. Đây cũng là xu hướng điều trị chung của cả phương Đông và phương Tây trong những năm gần đây. Trong khi thuốc Tây y bộc lộ nhiều hạn chế như chi phí đắt đỏ, gây nhiều tác dụng phụ thì y học cổ truyền lại gần như khắc phục được toàn bộ các nhược điểm này. Tuy nhiên khi dùng thuốc Đông y để chữa bệnh viêm dây thần kinh số 5, người bệnh cần kiên trì sắc uống và không bỏ dở liệu trình.
Y học cổ truyền của chúng ta có rất nhiều bài thuốc hay được gìn giữ cẩn thận. Trong điều trị bệnh đau dây thần kinh số 5, chúng ta có thể kể đến bài thuốc Vương Dược Bình Cốt của Đông y Nguyễn Văn Liễu. Cách chữa viêm dây thần kinh số 5 này là bí quyết đã được lưu truyền nhiều thế hệ dưới dạng bài thuốc cổ phương. Cho đến khi Đại tá, Bác sĩ Nguyễn Văn Liễu cùng đội ngũ y bác sĩ của Phòng khám Đông y Nguyễn Văn Liễu tập hợp và đưa vào nghiên cứu chuyên sâu, tối ưu hóa từng thành phần dược tính và áp dụng thêm Y học hiện đại để có cơ sở chứng minh cụ thể hiệu quả bài thuốc,
Bài thuốc còn có một dạng khác sử dụng sẵn với 2 chế phẩm là viên cao uống và rượu thuốc xoa bóp, vẫn với các thành phần thảo dược như trên và được phân tách để bào chế thành dạng sử dụng trực tiếp tiện dụng, không cần đun sắc, dễ uống, dễ mang theo.
Vương Dược Bình Cốt là một bài thuốc đáng tìm hiểu và sử dụng, dành cho người bị viêm dây thần kinh số 5 nhưng chưa tìm được biện pháp khắc phục.
Các triệu chứng ban đầu của viêm dây thần kinh số 5 rất giống với các bệnh răng miệng. Vì vậy người bệnh cần tới bệnh viện ngay từ khi thấy các biểu hiện bất thường để tìm cách chữa bệnh đau dây thần kinh số 5 trong thời gian sớm nhất.
Đau dây thần kinh – Chia sẻ kiến thức bệnh đau dây thần kinh
Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5
Bệnh đau dây thần kinh số V hay đau dây tam thoa, đau dây thần kinh sinh ba là bệnh xuất phát từ sự thương tổn nhất định ở một, hai hoặc cả ba nhánh dây thần kinh V1, V2, V3.
Liên hệ bác sĩ tư vấn và điều trị đau dây thần kinh số V theo số 1900 1246
1. Bệnh đau dây thần kinh số 5 là gì
2. Triệu chứng của bệnh đau dây thần kinh số 5
3. Tác hại của bệnh đau dây thần kinh số 5
4. Nguyên nhân gây ra bệnh đau dây thần kinh số 5
5. Điều trị bệnh đau dây thần kinh số 5
6. Phòng chống bệnh đau dây thần kinh số 5
7. Bác sĩ điều trị
===
Tham vấn thông tin, tư vấn và hẹn khám bệnh:
✍ Sài Gòn: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện ĐHYD
✍ Hà Nội: Đại Học Y Hà Nội, Viện 103
✍ Đà Nẵng: Bệnh viện Tâm Thần Đà Nẵng
===
Dây thần kinh số V hay còn gọi là dây thần kinh sinh ba, dây thần kinh tam thoa (tên tiếng Anh là Trigeminal Neuralria), là một trong những cơ quan thần kinh chính nằm trên vùng mặt của mỗi người. Bộ dây thần kinh này có ba nhánh ở mỗi nửa mặt, phân bố đối xứng nhau. Dây thần kinh số V khởi nguồn từ não bộ, đi theo đường ra trước tai rồi vươn tới khuôn mặt. Từ ba nhánh chính, có rất nhiều những nhánh nhỏ được chia ra thành nhiều hướng. Ba nhánh chính của dây thần kinh số V bao gồm:
Nhánh V1: vươn tới vùng da đầu, da trán, quanh mắt.
Nhánh V2: vươn ra khu vực quanh má.
Nhánh V3: vươn tới khu vực quai hàm.
Dây thần kinh số V có chức năng hỗ trợ điều khiển cơ, tạo ra động tác nhai, kiểm soát việc tạo nước bọt và nước mắt.
Đau dây thần kinh số V là xuất phát từ sự thương tổn nhất định ở một trong ba, hai trong ba hoặc cả ba nhánh dây thần kinh này. Trong đó, nhánh V2 và V3 có tỷ lệ xuất hiện vấn đề cao hơn so với nhánh V1. Bệnh này thường xuất hiện ở độ tuổi sau 60, phụ nữ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn đàn ông.
Đau dây thần kinh sinh ba là một tình trạng đau mạn tính. Nếu bạn bị đau dây thần kinh sinh ba thì chỉ cần kích thích nhẹ ở mặt (ví dụ như đánh răng hoặc trang điểm) cũng có thể làm khởi phát đột ngột cơn đau.
Cảm giác đau của bệnh là đau như bị châm chích, có thể nhói theo đợt vài giây hoặc vài phút, thậm chí là cả vài giờ và lâu hơn nữa. Cảm giác đau này có thể xảy đến bất ngờ, hoặc khi có tác động ngoại lực lên mặt, kể cả lực cực nhẹ như gió thổi qua. Ngoài ra, những hoạt động thường ngày như ăn uống, cười khóc, nói chuyện… cũng khiến người bệnh cảm thấy đau đớn. Bệnh đau dây thần kinh số V có các biểu hiện cụ thể như sau:
Đau ở vùng da mặt, vùng hàm, vùng mũi trán, vùng trán.
Các cơn đau thường ngắn nhưng dữ dội, cảm giác như bị dao đâm.
Cơn đau xuất hiện tự phát hoặc có các tác nhân kích thích như cạo mặt, rửa mặt, nhai, nói hoặc chạm vào mặt.
Cơn đau đến đột ngột và đi cũng nhanh chóng.
Cơn đau có thể tái phát mà không theo một quy luật nào, có thể xuất hiện thường xuyên nhưng cũng có lúc một thời gian dài không thấy bị lại.
Cơn đau lúc đầu thường ngắn từ vài giây đến vài phút, sau này thì có thể kéo dài đến vài giờ.
Cảm giác đau dai dẳng, âm ỉ, như thiêu đốt nhưng cường độ ít hơn so với đau co giật.
Đau ở các vị trí bị chi phối bởi dây thần kinh sinh ba, bao gồm má, cằm, răng nướu, môi, hoặc có thể ở mắt và trán.
Đau thường ảnh hưởng một bên mặt, hiếm khi cả 2 bên.
Đau thường tập trung tại một điểm hoặc có thể lan rộng ra.
Cơn đau thường sẽ trở nên thường xuyên và nặng hơn theo thời gian.
Lưu ý rằng: Khi mắc bệnh đau dây thần kinh số V, những cơn đau do bệnh đau dây thần kinh có thể tạm thời không xuất hiện, nhưng không có nghĩa là bạn đã hết bệnh và chúng sẽ không quay trở lại. Việc điều trị diễn ra càng muộn sẽ càng trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, bạn cần nhanh chóng đi khám để nhận được sự điều trị thích hợp nhất.
Bệnh đau dây thần kinh số V đem đến cho người bệnh những cơ đau mặt đột ngột và cường độ ngày càng tăng. Những cơn đau đó gây ra cho người bệnh những khó chịu và mệt mỏi, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống người bệnh, khiến người bệnh không thể tập trung tinh thần, sa sút trong công việc.
Những cơn đau do bệnh đau dây thần kinh số V thường xuất hiện không theo chu kì nào, vì vậy bệnh nhân không có biện pháp đối phó kịp thời với những cơn đau này. Càng để lâu, bệnh càng tiến triển xấu hơn, những cơn đau ngày càng nhiều hơn, thời gian của cơn đau cũng lâu hơn. Việc điều trị bệnh cũng trở nên khó khăn khi bệnh đã đến giai đoạn nặng.
Khi bị đau dây thần kinh sinh ba, chức năng của dây thần kinh này bị phá hủy. Bệnh gây ra do điểm tiếp xúc (tiếp điểm) giữa mạch máu (tĩnh mạch hay động mạch) và dây thần kinh sinh ba, tiếp điểm này tạo áp lực đè ép dây thần kinh sinh ba và làm mất chức năng của dây thần kinh này.
Một vài người còn cảm thấy đau dây thần kinh sinh ba do tổn thương và có các bất thường khác ở não. Một số nguyên nhân khác như chấn thương, đột quỵ đều có thể gây ra đau dây thần kinh sinh ba.
Có nhiều yếu tố khởi phát đau dây thần kinh sinh ba như:
Bác sĩ sẽ chẩn đoán đau dây thần kinh sinh ba chủ yếu dựa trên mô tả của bệnh nhân về cơn đau, bao gồm:
Tính chất đau: đột ngột và chỉ trong thời gian ngắn
Vị trí đau: những vị trí trên mặt bị ảnh hưởng bởi cơn đau sẽ giúp bác sĩ dễ chẩn đoán hơn.
Hoàn cảnh khởi phát cơn đau: thường bị kích thích nhẹ trước đó ở má 2 bên ví dụ như ăn, nói chuyện.
Bác sĩ có thể làm thêm một số test khác để chẩn đoán đau dây thần kinh sinh ba và để tìm các nguyên nhân nền gây ra bệnh. Các bài kiểm tra thường là:
Thăm khám hệ thần kinh: sờ và kiểm tra từng vùng trên khuôn mặt sẽ giúp bác sĩ quyết định chính xác cơn đau xảy ra ở đau và nhánh nào trên dây sinh ba bị ảnh hưởng. Kiểm tra phản xạ cũng giúp bác sĩ nhận định các triêu chứng gây ra bởi sự chèn ép dây thân kinh hay bởi nguyên nhân khác.
MRI: MRI scan ở não để xác định xem có khối u nào làm đau dây thần kinh sinh ba hay không. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể sẽ tiêm thuốc nhuộm vào máu để quan sát các động mạch và tĩnh mạch rõ hơn. (MRA hay còn gọi là MRI mạch máu)
Cơn đau ở mặt có thể gây ra bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, do đó việc chẩn đoán ban đầu là rất quan trọng. Bác sĩ nếu thấy cần thiết làm thêm vài xét nghiệm để loại trừ chắc chắn các nguyên nhân khác gây ra cơn đau.
Việc điều trị đau dây thần kinh sinh ba thường bắt đầu với thuốc uống, và một số trường hợp ghi nhận có hiệu quả và không cần điều trị gì thêm. Tuy nhiên, theo thời gian, có thể bệnh sẽ giảm đáp ứng với thuốc và thậm chí thuốc còn mang lại các tác dụng phụ. Với những trường hợp này thì điều trị bằng thuốc tiêm hay phẫu thuật sẽ là sự lựa chọn tốt hơn.
Nếu cơn đau gây ra do bệnh nền có sẵn ví dụ như đa xơ hóa thì bác sĩ cần điều trị luôn cả bệnh hay nguyên nhân nền gây đau dây thần kinh sinh ba.
Thuốc uống
Thông thường, các bác sĩ dùng thuốc làm giảm hoặc chặn tín hiệu truyền cảm giác đau về não, các thuốc như:
Thuốc chống trầm cảm: Được chứng minh có hiệu quả trong điều trị đau dây thần kinh sinh ba. Nếu thuốc chống bệnh trầm cảm bạn đang dùng không hiệu quả, bác sĩ có thể tăng liều lên hoặc chuyển sang thuốc khác. Các tác dụng phụ của thuốc chống trầm cảm như choáng, mơ hồ, ngủ gà hay buồn nôn. Ngoài ra có thể gây phản ứng thuốc nghiêm trọng ở một số người, chủ yếu là người dân châu Á.
Thuốc chống co cơ: có thể dùng riêng lẻ hoặc kết hợp với thuốc làm giãn cơ. Tác dụng phụ bao gồm mơ hồ, buồn nôn và ngủ gật.
Tiêm thuốc giảm đau: các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tiêm giảm đau có thể làm giảm đau dây thần kinh sinh ba ở những người không đáp ứng với thuốc uống. Tuy nhiên, cần nghiên cứu nhiều hơn trước khi phương pháp này được đưa vào sử dụng phổ biến.
Phẫu thuật
Mục đích của việc phẫu thuật là nhằm làm chặn dòng máu gây chèn ép hay phá hủy dây thần kinh sinh ba và duy trì chức năng của dây thần kinh này. Khi dây sinh ba bị phá hủy thường gây liệt mặt tạm thời hoặc vĩnh viễn, và nếu được phẫu thuật, cơn đau sẽ tạm thời biến mất nhưng có thể trở lại sau vài tháng hay vài năm.
Có nhiều cách phẫu thuật như:
– Phẫu thuật giải ép vi mạch: phương pháp này làm tái định khu hay di chuyển các mạch máu có dính với gốc của dây thần kinh sinh ba. Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ sẽ cắt ở ngay sau lỗ tai bên bị đau. Sau đó, qua một lỗ nhỏ để đi vào hộp sọ, bác sĩ sẽ di chuyển bất kì mạch máu nào có dính trên đường đi của dây thần kinh sinh ba và đặt một miếng đệm vào giữa mạch máu và dây thần kinh.
Nếu một tĩnh mạch gây chèn ép thần kinh, bác sĩ cũng sẽ dời tĩnh mạch này đi. Còn nếu các mạch máu không đè nén lên dây thần kinh, bác sĩ có thể cắt đi một đoạn của dây sinh ba.
Phương pháp này có thể loại bỏ hoặc làm giảm cơn đau với tỉ lệ thành công khá nhiều, nhưng cơn đau có thể trở lại nào trong một số trường hợp. Tuy cách phẫu thuật này có một vài nguy cơ như làm giảm thính lực, gây yếu mặt, tê liệt mặt hoặc thậm chí có thể đột quỵ cũng như các biến chứng khác. Nhưng hầu hết các trường hợp được ghi nhận là không tê liệt mặt sau phẫu thuật.
– Phẫu thuật cắt bằng sóng gamma: phương pháp này dùng sóng từ để phá hủy dây thần kinh sinh ba nhằm làm giảm hoặc loại bỏ hoàn toàn cơn đau. Sự giảm đau có thể từ từ và kéo dài vài tuần. Cách phẫu thuật này được ghi nhận rất thành công trong việc cắt giảm cơn đau ở phần lớn bệnh nhân. Nếu cơn đau tái phát thì phẫu thuật có thể phải lặp lại.
Đau dây thần kinh số V là bệnh lý cần chữa trị lâu dài và phụ thuộc và tình trạng của người bệnh. Bởi vậy không có câu trả lời cụ thể cho chi phí khám, trị liệu bệnh là bao nhiêu. Tuy nhiên, Hello Doctor muốn nhấn mạnh rằng, để an toàn cho bản thân, KHÔNG tự ý dùng thuốc, hãy gặp bác sĩ để được khám, chẩn đoán, lên phác đồ, liệu trình thuốc điều trị cho phù hợp càng sớm càng tốt.
Để phòng tránh đau dây thần kinh số V, ngoài việc có một chế độ dinh dưỡng khoa học, lối sống lành mạnh thì việc thường xuyên rèn luyện thân thể là rất cần thiết. Liên hệ bác sĩ tư vấn và điều trị đau dây thần kinh số V theo số 1900 1246
Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5 Có Di Truyền Không?
Chào bác sĩ tôi, tôi là phụ nữ, 26 tuổi, đã lập gia đình được 2 năm nay. Hiện tại tôi và chồng đang rất muốn hạ sinh một đứa con đầu lòng. Tuy nhiên, tôi vừa được chẩn đoán bị đau dây thần kinh số 5 cách đây không lâu. Việc này đã khiến tôi vô cùng lo lắng cho tương lai con cháu mình sau này, do tôi không rõ căn bệnh này có ảnh hưởng gì đến việc sinh đẻ hay đến sức khỏe của con tôi sau này không. Vì vậy, xin hỏi bác sĩ căn bệnh đau dây thần kinh số 5 có di truyền không? Việc điều trị bằng thuốc có ảnh hưởng gì không nếu tôi có thai? Kính mong bác sĩ trả lời thắc mắc này của tôi. Xin cảm ơn bác sĩ.
Trả lời:
===
Tham vấn thông tin, tư vấn và hẹn khám bệnh:
✍ Sài Gòn: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện ĐHYD
✍ Hà Nội: Đại Học Y Hà Nội, Viện 103
✍ Đà Nẵng: Bệnh viện Tâm Thần Đà Nẵng
===
1. Bệnh đau dây thần kinh số 5 có di truyền không
Bệnh đau dây thần kinh số 5 không di truyền. Vì vậy bạn có thể an tâm rằng con bạn khi sinh ra hoàn toàn bình thường, không có nguy cơ mắc bệnh do di truyền từ mẹ. Để hiểu rõ hơn về bệnh đau dây thần kinh số 5, bạn có thể tra cứu nhanh thông tin tại bài viết Tổng quan về bệnh đau dây thần kinh số 5.
2. Bị đau dây thần kinh số 5 có nên sinh con không?
Theo các nghiên cứu của Hiệp hội Sản Phụ khoa Hoa kỳ cho thấy việc mang thai thường được ghi nhận có thể làm nặng thêm các bệnh căn mạn tính mà sản phụ đang mắc phải. Mặc dù đau dây thần kinh số 5 là căn bệnh thường xảy ra ở người lớn tuổi. Nhưng bệnh cũng đã được ghi nhận ở những người ở độ tuổi sinh sản, khiến cho việc điều trị có thể phức tạp hơn đôi chút. Do khả năng gây ảnh hưởng thai nhi của một số loại thuốc điều trị đau dây thần kinh số 5, nên việc điều trị căn bệnh này có thể phức tạp hơn ở sản phụ đang mang thai so với người bình thường. Hơn nữa, một số thủ thuật xâm lấn trên phụ nữ mang thai có thể không được đảm bảo tính an toàn, do chưa có nhiều nghiên cứu chứng minh được tính hiệu quả của chúng.
Do đó trong trường hợp của bạn, chúng tôi khuyên bạn nên tập trung điều trị cho ổn định tình trạng trên trước khi mang thai nhằm hạn chế một số tác dụng phụ không mong muốn có thể xảy ra trên thai kì.
HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG DỄ DÀNG GẶP BÁC SĨ: GỌI 1900146 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỨC KHỎE LẬP TỨC: GỌI 19001246
(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)
3. Thuốc điều trị đau dây thần kinh số 5 có ảnh hưởng gì đến thai kỳ không?
Đau dây thần kinh số 5 cò nhiều phương pháp điều trị, bao gồm cả điều trị nội khoa và điều trị ngoại khoa.
Điều trị nội khoa bằng thuốc luôn được xem là phương pháp tối ưu và hiệu quả, kinh tế. Do đó, bác sĩ thường chỉ định điều trị nội khoa là phương pháp đầu tay ở các bệnh nhân đau dây thần kinh số 5. Nhằm mục đích giảm đau, bác sĩ sẽ chỉ định một số loại thuốc đặc biệt để kiểm soát tín hiệu đau được dẫn truyền bằng dây thần kinh sinh ba đến não bộ.
Các loại thuốc hiện tại được dùng phổ biến trong điều trị, bao gồm:
Thuốc chống co giật
Thuốc chống co thắt.
Thuốc an thần
Một số loại Vitamin nhóm B, khoáng chất như Mg, cũng được xem là điều trị nâng đỡ, bổ sung cho các trường hợp Đau dây thần kinh mạn tính.
Tuy nhiên, theo nhiều loại nghiên cứu, các nhóm thuốc chống co giật trên có tác dụng phụ gây quái thai nếu được sử dụng trên thai kỳ. Ngoài ra, việc sử dụng các loại thuốc chống co giật còn khiến cho thai nhi khi sinh ra có thể bị bất thường cấu trúc cơ thể hay chậm phát triển trí tuệ. Do đó, việc chỉ định điều trị đau dây thần kinh số 5 phải hết sức cẩn thận trên phụ nữ mang thai.
Tìm hiểu kĩ hơn trong bài viết Thuốc điều trị bệnh đau dây thần kinh sô 5.
4. Điều trị bằng thực phẩm hoặc các liệu pháp không dùng thuốc
Nếu phương pháp dùng thuốc không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể sẽ chỉ định cho bạn điều trị phẫu thuật, bao gồm:
– Mổ chèn ép vi mạch: Thủ thuật này bao gồm việc di dời và loại bỏ các mạch máu có liên hệ với dây thần kinh sinh ba nhằm kiểm soát hoạt động bất thường của dây thần kinh này.
– Phẫu thuật xạ trị lập thể não (dao gamma): Thủ thuật này sử dụng một liều chất phóng xạ nhắm đến dây thần kinh sinh ba. Triệu chứng đau sẽ thuyên giảm từ từ và có thể cần đến 1 tháng sau điều trị để hồi phục hoàn toàn.
– Phẫu thuật cắt rễ thần kinh sinh ba: Bác sĩ sẽ cắt bớt một số sợi của rễ thần kinh số 5 nhằm làm giảm đau, sau thủ thuật bạn sẽ có thể cảm thấy hơi tê hoặc mất cảm giác vùng mặt.
Bên cạnh các thủ thuật nêu trên, bạn cũng nên bổ sung vào chế độ ăn của mình nhiều thực phẩm bổ dưỡng như thịt, cá, trứng, sữa để bảo đảm nguồn năng lượng cho cơ thể hoạt động và chuyển hóa. Tăng cường chất xơ, rau xanh, củ quả và hạn chế các thức ăn chiên xào cũng là một phương pháp dễ làm và dễ áp dụng nhằm hỗ trợ cơ chế mau chóng khỏi bệnh.
Tóm lại:
– Việc mang thai thường được ghi nhận có thể làm nặng thêm các bệnh căn mãn tính mà sản phụ đang mắc phải.
– Sử dụng các loại thuốc chống co giật còn khiến cho thai nhi khi sinh ra có thể bị bất thường cấu trúc cơ thể hay chậm phát triển trí tuệ.
– Nếu phương pháp dùng thuốc không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể sẽ chỉ định cho bạn điều trị phẫu thuật.
– Một số thủ thuật xâm lấn trên phụ nữ mang thai có thể không đảm bảo được tính an toàn.
Lời khuyên:
– Bạn nên tập trung điều trị cho ổn định tình trạng trên trước khi mang thai nhằm hạn chế một số tác dụng phụ không mong muốn có thể xảy ra trên thai kì.
– Bạn nên uống nhiều nước mỗi ngày, ăn nhiều rau xanh, trái cây, nhiều thịt, cá, trứng, sữa, hạn chế thức ăn chiên xào có nhiều dầu mỡ để giúp cơ thể chống chọi với căn bệnh khó chịu này, bên cạnh các biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc đã nêu trên.
Những thông tin sẽ hữu ích cho bạn:
HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG DỄ DÀNG GẶP BÁC SĨ: GỌI 1900146 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỨC KHỎE LẬP TỨC: GỌI 19001246
(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)
Liệt Dây Thần Kinh Số 7
Liệt dây thần kinh 7 ngoại biên là một bệnh gặp tương đối phổ biến trên lâm sàng, chiếm 2,95% bệnh thần kinh (Hồ Hữu Lương, Nguyễn Văn Chương, Cao Hữu Hân, 2003), bệnh thường gặp ở mùa đông xuân và ở mọi lứa tuổi. Nguyên nhân thường do lạnh, nhiễm trùng, chấn thương khối u hoặc các rối loạn trong xương đá trong đó nguyên nhân do lạnh chiếm 80% (Nội khoa cơ sở, tập 1, 2004).
Từ cổ xưa chứng liệt mặt đã được mô tả trong các y văn của người La Mã. Năm 600, Paulus Acginata mô tả chi tiết liệt lông mày và là người đầu tiên khâu sụn mi trong liệt mặt. Năm 1972, Frank là người đầu tiên mô tả chính xác liệt mặt. Sau đó, 1852 Charles Bell đã hiệu đính lại những điểm mấu chốt. Năm 1835, Bernad nhấn mạnh vai trò của sự nhiễm lạnh trong liệt mặt và ông là người đầu tiên nhận định liệt mặt là do cơ chế thắt nghẹt dây thần kinh trong ống xương, ông cho rằng sự rối loạn tuần hoàn của mạch nuôi thần kinh số 7 trong cống Fallope đóng vai trò quan trọng trong bệnh lý này. Bệnh không đe dọa đến mạng sống của bệnh nhân nhưng gây ảnh hưởng đến một số hoạt động thường ngày như: nhai khó bên liệt, ăn uống bị đổ ra ngoài, mắt không nhắm được, dễ gây các bệnh về mắt mỗi khi có kích thích tác động, và điều quan trọng là làm mất thẩm mỹ khuôn mặt .
Về phương diện điều trị liệt số 7 ngoại biên do lạnh, Y học hiện đại đã áp dụng các phương pháp: chiếu tia hồng ngoại hoặc sóng ngắn, thuốc corticod và vitamin, phẫu thuật… Nhược điểm của phương pháp này là giá thành cao, đặc biệt corticoid có ảnh hưởng tới dạ dày, gan, thận, xương, huyết áp… Vì thể, Tổ chức Y tế Thế giới đã khuyến cáo cần nghiên cứu sử dụng các phương pháp Y học cổ truyền trong điều trị để vừa hạ giá thành vừa tránh được tai biến do dùng thuốc.
Đông y có rất nhiều phương pháp để điều trị liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do lạnh như: uống thuốc, cao dán, cứu, ôn châm, điện châm, thủy châm, laser châm, từ châm, dán thuốc trên huyệt, xoa bóp bấm huyệt…
Đông y chữa Liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên hiệu quả
– Liệt mặt là hiện tượng mất hoặc giảm vận động nữa mặt của những cơ bám da ở mặt do dây số 7 chi phối .
Liệt mặt ngoại biên là tổn thương được tính từ nhân dây số 7 trong cầu não, liệt mặt trung ương là những tổn thương được tính từ trước nhân trở lên. Những trường hợp liệt dây số 7′ do nhân bọt trên không thuộc trường hợp này.
Thường gặp nhất là liệt mặt ngoại biên do lạnh (80%). Đa số các trường hợp liệt mặt (liệt dây thần kinh số 7) do lạnh, do xung huyết, điều trị bằng châm cứu đem lại kết quả tốt. Các trường hợp liệt do nhiễm khuẩn hồi phục chậm hơn. Liệt dây thần kinh số 7 ngoại biên do cảm lạnh dễ phục hồi hơn do chấn thương.
Về đặc điểm dây thần kinh số 7, hay còn gọi là dây thần kinh mặt, là một dây thần kinh hỗn hợp vừa điều khiển vận động vừa là dây thần kinh cảm giác, từ trong sọ não thoát ra nền sọ đi cùng với dây thần kinh số 7I qua tai trong, sau đó thần kinh số 7 chui qua một ống xương hẹp gọi là ống Fallop, sau đó thoát ra ngoài nền sọ qua qua lỗ trâm chũm.
Như vậy tổn thương dây thần kinh số 7 phía trước ống Fallop được gọi là tổn thương dây thần kinh số 7 trung ương; và tổn thương từ đoạn ống Fallop trở ra thì gọi là tổn thương thần kinh số 7 ngoại biên.
Theo mô tả của Fuller và đồng nghiệp, dây thần kinh số 7 ngoại biên khi thoát ra khỏi lỗ trâm chũm thì chạy rất nông cho đến nhánh xương hàm dưới, sau đó nó đi vào tuyến mang tai và tại đó nó phân làm ba nhánh chính để phân bổ về các cơ mặt đó là nhánh gò má (bao gồm nhánh thái dương và gò má), nhánh miệng và nhánh hàm dưới (bao gồm nhánh hàm dưới và nhánh cổ).
Tuy nhiên các nhánh tận và nhánh phụ của dây thần kinh số 7 có thể lên đến 7000 nhánh nhỏ dẫn đến khắp mặt, cổ, các tuyến nước bọt và ống tai ngoài. Các dây thần kinh này kiểm soát vận động của các cơ vùng cổ, trán và cơ biểu lộ cảm xúc vùng mặt, cũng như kiểm soát cường độ phát âm. Dây thần kimh số 7 cũng đóng vai trò kiểm soát bài tiết nước mắt, nước bọt vùng trước miệng. Kiểm soát vị giác của 2/3 lưỡi phía trước và cảm giác vùng ống tai ngoài. Tại chỗ phân chia, nhánh thái dương và nhánh gò má chạy dốc lên, nhánh miệng và đặc biệt là các nhánh xương hàm dưới chúi xuống dưới, chạy lên trên hoặc ra sau ngành xương hàm dưới cho nên dễ bị tổn thương khi có sức ép đè vào vùng này. Thêm nữa, tổn thương có thể xảy ra khi có tác động kéo xương hàm dưới ra phía trước làm cho nhánh dây thần kinh mặt đoạn xương hàm dưới bị kéo dãn.
Theo mô tả qua 20 lần phẫu tích dây thần kinh số 7 của Lisitsyn thì có một số sự khác biệt trong cấu trúc giải phẫu phân bố các nhánh của dây thần kinh này. * Thứ nhất, chỗ phân nhánh có thể cao hay thấp tuỳ theo vị trí cao hay thấp của tuyến mang tai. * Thứ hai, dây thần kinh có thể nằm nông hơn so với tuyến
Thứ ba, các nhánh xương hàm dưới đôi khi chạy ở vị trí thấp hơn bình thường, khi nó nó ôm vòng quanh mép chỗ góc của xương hàm.
Do đó khi đè nén vào vùng xương hàm dưới có thể gây tổn thương nhánh xương hàm dưới. Nhánh xương hàm dưới có chức năng điều phối các cơ của môi dưới, cho nên các thương tổn có thể hay gặp ở môi dưới hơn; cũng như các tổn thương nhẹ như nói khó, ăn uống khó. Tuy nhiên các nơi khác cũng có thể gặp tuỳ theo nhánh nào của dây thần kinh số 7 bị ảnh hưởng.
Dựa vào cấu tạo giải phẫu học của dây số 7, chia làm 2 loại:
Liệt mặt thể trung ương: do tổn thương phía trên nhân của dây số 7, thường kèm liệt nửa người. Không có dấu hiệu Charles Bell, không bao giờ tiến triển sang thể co cứng.
Liệt mặt thể ngoại biên: do tổn thương hoặc ở ngay nhân nằm trong cầu não hoặc ở đoạn tận cùng phía ngoài. Thường liệt cả mặt trên lẫn mặt dưới, có dấu hiệu Charles Bell, có thể tiến triển thành thể cứng.
– Liệt dây thần kinh số 7 thể trung ương.
Thường do tổn thương ở 1 bên bán cầu não: nhũn não, chảy máu não, khối u não…
Hội chứng Millard-Gubler tuy liệt mặt thể ngoại biên nhưng vẫn kèo theo liệt nửa người với dấu hiệu Babinski bên đối diện của mặt liệt.
Do u não: U ở cầu não, u góc cầu tiểu não. U nền sọ: chú ý tới u màng não ở nền sọ.
Biến chứng thần kinh của u vòm họng.
Viêm màng não, nhất là viêm màng não do lao.
– Liệt dây thần kinh số 7 thể ngoại biên
Dựa theo vị trí từ nhân ra đến chỗ tận cùng của dây thần kinh số 7, có thể do:
+Các nguyên nhân ở tai: Viêm tai giữa cấp hoặc mạn, viêm xương đá, viêm tai xương chũm ,Viêm tuyến mang tai
+Chấn thương vùng xương đá: ở ngoài lớn do vỡ xương đá, ở trẻ sơ sinh do can thiệp sản khoa (do kẹp Foxcep, khung chậu người mẹ hẹp…).
+Nhiễm virut (virus herpes simplex týp I và virus herpes zoster)
Viêm màng não dầy dính, làm tổn thương thần kinh từ rãnh hành tủy- cầu não đến ống tai trong.
+Do giang mai, viêm nhiễm dây thần kinh
+Bệnh bại liệt trẻ em (Polye-liệt dây số 7 hai bên – thể thân não của bệnh bại liệt, liệt hai bên nửa mặt và thường gặp ở trẻ em)
Uốn ván mặt của Rase… các thể này hiện nay rất ít gặp.
+Zona hạch gối (zona nhân gối): Zona là bệnh cấp tính do virus hướng thần kinh phạm vào hạch gối gây liệt mặt đột ngột. Đặc điểm là phát ban: ban đỏ, mụn nước ở quanh vành tai, vùng viền ống tai ngoài; có thể phạm cả vùng dây số 7 nên có thể có ban đỏ, mụn nước mọc ở 2/3 trước lưỡi. Cần chú ý đừng để vỡ mụn nước, vì sẽ làm dải ban đỏ, mụn nước lan rộng gây chèn ép nhiều nơi.
Bệnh tự miễn: lupus ban đỏ…
+Nguyên nhân do lạnh chiếm 80%. Liệt dây số 7 ngoại biên “do lạnh”. Thường gặp với bệnh cảnh đột ngột, sau khi tiếp xúc với trời lạnh, ngáp và bị liệt có thể đó là do nhiễm khuẩn tiềm tàng, biểu hiện ra do lạnh…
Theo Y học hiện đại:
– Mặt mất cân xứng: mặt bị kéo lệch sang bên lành, bên liệt trông như mặt nạ, các nếp tự nhiên như nếp nhăn trán, rãnh mũi má bị mờ hoặc mất, miệng và nhân trung méo về bên lành (các cơ mặt không thể cử động theo ý muốn, nên vui buồn không lộ, khó diễn tả tình cảm bằng nét mặt nên có hình ảnh của nét mặt vô vảm (loss of facial expression). Sự mất cân xứng càng rõ khi bệnh nhân làm một số động tác chủ động như khi cười, khi nhe răng, phồng má, thổi lửa, huýt sáo miệng méo lệch sang bên lành.
Sự mất cân xứng rõ hơn khi bệnh nhân nhe răng, phồng má, thổi lửa, huýt sáo
– Mắt nhắm không kín ở bên liệt, khi nhắm đồng tử di chuyển lên trên và ra ngoài để lộ một phần lòng trắng gọi là dấu hiệu Charle Bell dương tính.
– Nói khó
– Lưỡi lệch về bên liệt (do cơ lưỡi bên lành đẩy sang bên liệt) – Uống nước, nước chảy ra ngoài phía bên bệnh, ăn cơm thức ăn thường kẹt giữa răng và má ở bên bệnh – Ngoài ra, còn một số triệu chứng khác ít gặp hơn như
Cảm giác tê một bên mặt Mất vị giác ở 2/3 trước lưỡi Khô mắt do không tiết nước mắt hoặc tăng tiết nước mắt làm nước mắt chảy giàn giụa, nhất là trong hoặc ngay sau bữa ăn.
Trường hợp liệt hoàn toàn: Có phần lớn các triệu chứng như trên
Trường hợp liệt nhẹ: Thường khó thấy sự không cân đối của mặt, cần phải thăm khám tỉ mỉ, kiên trì mới phát hiện được. Yêu cầu người bịnh nhắm thật chặt 2 mắt, ta thấy 2 lông mi bên liệt có vẻ dài hơn, do mắt bên liệt không co được chặt.
– Phân biệt với liệt mặt trung ương: liệt số 7 trung ương chỉ liệt 1/2 mặt dưới và không có dấu hiệu Charle Bell không mất nếp nhăn trán
– Bệnh có đặc điểm là phục hồi nhanh, 70-80% trường hợp mắc bệnh thường tự khỏi sau khoảng 1-3 tháng. Nhưng một số ca tiến triển xấu do chẩn đoán và điều trị sai, gây biến chứng và di chứng như viêm loét giác mạc (do mắt nhắm không khép kín dễ bị gió bụi bẩn bám vào gây nhiễm trùng), co giật cơ mặt (do hồi phục thần kinh không hoàn toàn) hoặc co cứng nửa mặt (do dây thần kinh thoái hóa).
Điều trị tây y
Kháng sinh: Ampicillin 1-2g/ngày
Prednisolon, Alpha chymotrypsin
Vitamin nhóm B như B1, B6, đặc biệt là mecobalamin: một dẫn xuất của Vitamin B12 có tác dụng thúc đẩy phục hồi dây thần kinh bị tổn thương hoặc Vitamin B1 liều cao: 0,025g-10 ống/ ngày, cho dài ngày.
Thường xuyên nhỏ mắt bằng dung dịch chloramphenicol trong trường hợp nặng. Hoặc dùng nước mắt nhân tạo. Không được dùng strychnine vì dễ chuyển sang co cứng.
Các thuốc giãn mạch: Cavinton
Chất steroid, như thuốc Prednisone, có giúp gì trong việc chữa bệnh liệt dây số 7 ngoại vi, đến nay, chưa ai dám quyết. Chưa có những khảo cứu cho thấy, khi bị liệt liệt dây số 7 ngoại vi, chất steroid rõ ràng giúp sự hồi phục nhanh hơn, hoặc hoàn toàn hơn. Dẫu vậy, chất steroid hay được các bác sĩ dùng để chữa bệnh liệt dây số 7 ngoại vi, may ra nó có giúp chút nào hay chút nấy.
Theo một tài liệu, khuynh hướng chữa trị liệt liệt dây số 7 ngoại vi hiện tại: nếu người bệnh đến khám sớm, triệu chứng chưa quá một tuần, nên dùng Prednisone (60-80 mg mỗi ngày) trong 1 tuần.
Cũng vì khám phá cho thấy, siêu vi trùng herpes có lẽ là nguyên nhân gây bệnh liệt liệt dây số 7 ngoại vi, nên có bác sĩ dùng thêm thuốc diệt siêu vi herpes có tên Zovirax (acyclovir), với lượng 200 mg 5 lần mỗi ngày, cho đủ 10 ngày. Chữa trị này cũng vậy, chưa có những bằng chứng vững chắc cho thấy có thực sự giúp hay không. Gần đây, có thuốc Valtrex mới hơn, thường được sử dụng với lượng 1 gram ngày uống 3 lần trong 1 tuần.
Vật lý trị liệu liệt mặt (Dây thần kinh số 7)
Bạn đang xem bài viết Cách Chữa Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5 Bằng Đông Y trên website Kidzkream.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!