Cập nhật thông tin chi tiết về Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5 Có Di Truyền Không? mới nhất trên website Kidzkream.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Chào bác sĩ tôi, tôi là phụ nữ, 26 tuổi, đã lập gia đình được 2 năm nay. Hiện tại tôi và chồng đang rất muốn hạ sinh một đứa con đầu lòng. Tuy nhiên, tôi vừa được chẩn đoán bị đau dây thần kinh số 5 cách đây không lâu. Việc này đã khiến tôi vô cùng lo lắng cho tương lai con cháu mình sau này, do tôi không rõ căn bệnh này có ảnh hưởng gì đến việc sinh đẻ hay đến sức khỏe của con tôi sau này không. Vì vậy, xin hỏi bác sĩ căn bệnh đau dây thần kinh số 5 có di truyền không? Việc điều trị bằng thuốc có ảnh hưởng gì không nếu tôi có thai? Kính mong bác sĩ trả lời thắc mắc này của tôi. Xin cảm ơn bác sĩ.
Trả lời:
===
Tham vấn thông tin, tư vấn và hẹn khám bệnh:
✍ Sài Gòn: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện ĐHYD
✍ Hà Nội: Đại Học Y Hà Nội, Viện 103
✍ Đà Nẵng: Bệnh viện Tâm Thần Đà Nẵng
===
1. Bệnh đau dây thần kinh số 5 có di truyền không
Bệnh đau dây thần kinh số 5 không di truyền. Vì vậy bạn có thể an tâm rằng con bạn khi sinh ra hoàn toàn bình thường, không có nguy cơ mắc bệnh do di truyền từ mẹ. Để hiểu rõ hơn về bệnh đau dây thần kinh số 5, bạn có thể tra cứu nhanh thông tin tại bài viết Tổng quan về bệnh đau dây thần kinh số 5.
2. Bị đau dây thần kinh số 5 có nên sinh con không?
Theo các nghiên cứu của Hiệp hội Sản Phụ khoa Hoa kỳ cho thấy việc mang thai thường được ghi nhận có thể làm nặng thêm các bệnh căn mạn tính mà sản phụ đang mắc phải. Mặc dù đau dây thần kinh số 5 là căn bệnh thường xảy ra ở người lớn tuổi. Nhưng bệnh cũng đã được ghi nhận ở những người ở độ tuổi sinh sản, khiến cho việc điều trị có thể phức tạp hơn đôi chút. Do khả năng gây ảnh hưởng thai nhi của một số loại thuốc điều trị đau dây thần kinh số 5, nên việc điều trị căn bệnh này có thể phức tạp hơn ở sản phụ đang mang thai so với người bình thường. Hơn nữa, một số thủ thuật xâm lấn trên phụ nữ mang thai có thể không được đảm bảo tính an toàn, do chưa có nhiều nghiên cứu chứng minh được tính hiệu quả của chúng.
Do đó trong trường hợp của bạn, chúng tôi khuyên bạn nên tập trung điều trị cho ổn định tình trạng trên trước khi mang thai nhằm hạn chế một số tác dụng phụ không mong muốn có thể xảy ra trên thai kì.
HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG DỄ DÀNG GẶP BÁC SĨ: GỌI 1900146 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỨC KHỎE LẬP TỨC: GỌI 19001246
(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)
3. Thuốc điều trị đau dây thần kinh số 5 có ảnh hưởng gì đến thai kỳ không?
Đau dây thần kinh số 5 cò nhiều phương pháp điều trị, bao gồm cả điều trị nội khoa và điều trị ngoại khoa.
Điều trị nội khoa bằng thuốc luôn được xem là phương pháp tối ưu và hiệu quả, kinh tế. Do đó, bác sĩ thường chỉ định điều trị nội khoa là phương pháp đầu tay ở các bệnh nhân đau dây thần kinh số 5. Nhằm mục đích giảm đau, bác sĩ sẽ chỉ định một số loại thuốc đặc biệt để kiểm soát tín hiệu đau được dẫn truyền bằng dây thần kinh sinh ba đến não bộ.
Các loại thuốc hiện tại được dùng phổ biến trong điều trị, bao gồm:
Thuốc chống co giật
Thuốc chống co thắt.
Thuốc an thần
Một số loại Vitamin nhóm B, khoáng chất như Mg, cũng được xem là điều trị nâng đỡ, bổ sung cho các trường hợp Đau dây thần kinh mạn tính.
Tuy nhiên, theo nhiều loại nghiên cứu, các nhóm thuốc chống co giật trên có tác dụng phụ gây quái thai nếu được sử dụng trên thai kỳ. Ngoài ra, việc sử dụng các loại thuốc chống co giật còn khiến cho thai nhi khi sinh ra có thể bị bất thường cấu trúc cơ thể hay chậm phát triển trí tuệ. Do đó, việc chỉ định điều trị đau dây thần kinh số 5 phải hết sức cẩn thận trên phụ nữ mang thai.
Tìm hiểu kĩ hơn trong bài viết Thuốc điều trị bệnh đau dây thần kinh sô 5.
4. Điều trị bằng thực phẩm hoặc các liệu pháp không dùng thuốc
Nếu phương pháp dùng thuốc không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể sẽ chỉ định cho bạn điều trị phẫu thuật, bao gồm:
– Mổ chèn ép vi mạch: Thủ thuật này bao gồm việc di dời và loại bỏ các mạch máu có liên hệ với dây thần kinh sinh ba nhằm kiểm soát hoạt động bất thường của dây thần kinh này.
– Phẫu thuật xạ trị lập thể não (dao gamma): Thủ thuật này sử dụng một liều chất phóng xạ nhắm đến dây thần kinh sinh ba. Triệu chứng đau sẽ thuyên giảm từ từ và có thể cần đến 1 tháng sau điều trị để hồi phục hoàn toàn.
– Phẫu thuật cắt rễ thần kinh sinh ba: Bác sĩ sẽ cắt bớt một số sợi của rễ thần kinh số 5 nhằm làm giảm đau, sau thủ thuật bạn sẽ có thể cảm thấy hơi tê hoặc mất cảm giác vùng mặt.
Bên cạnh các thủ thuật nêu trên, bạn cũng nên bổ sung vào chế độ ăn của mình nhiều thực phẩm bổ dưỡng như thịt, cá, trứng, sữa để bảo đảm nguồn năng lượng cho cơ thể hoạt động và chuyển hóa. Tăng cường chất xơ, rau xanh, củ quả và hạn chế các thức ăn chiên xào cũng là một phương pháp dễ làm và dễ áp dụng nhằm hỗ trợ cơ chế mau chóng khỏi bệnh.
Tóm lại:
– Việc mang thai thường được ghi nhận có thể làm nặng thêm các bệnh căn mãn tính mà sản phụ đang mắc phải.
– Sử dụng các loại thuốc chống co giật còn khiến cho thai nhi khi sinh ra có thể bị bất thường cấu trúc cơ thể hay chậm phát triển trí tuệ.
– Nếu phương pháp dùng thuốc không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể sẽ chỉ định cho bạn điều trị phẫu thuật.
– Một số thủ thuật xâm lấn trên phụ nữ mang thai có thể không đảm bảo được tính an toàn.
Lời khuyên:
– Bạn nên tập trung điều trị cho ổn định tình trạng trên trước khi mang thai nhằm hạn chế một số tác dụng phụ không mong muốn có thể xảy ra trên thai kì.
– Bạn nên uống nhiều nước mỗi ngày, ăn nhiều rau xanh, trái cây, nhiều thịt, cá, trứng, sữa, hạn chế thức ăn chiên xào có nhiều dầu mỡ để giúp cơ thể chống chọi với căn bệnh khó chịu này, bên cạnh các biện pháp dùng thuốc và không dùng thuốc đã nêu trên.
Những thông tin sẽ hữu ích cho bạn:
HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG DỄ DÀNG GẶP BÁC SĨ: GỌI 1900146 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỨC KHỎE LẬP TỨC: GỌI 19001246
(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)
Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 9 Có Di Truyền Không?
Chào bác sĩ, năm nay tôi 27 tuổi, hiện đang sống tại TPHCM. Mấy tháng trước tôi rất hay bị đau ở phía sau cổ họng, lan xuống dưới lưỡi và phía sau tai trái, đau từ 10-20 phút, cứ mỗi lần ho hay hắt hơi là lại đau nhiều hơn. Gia đình tôi không có ai bị như vậy cả. Tôi có đi khám bác sĩ thì được chẩn đoán viêm dây thần kinh thiệt hầu, và được kê các loại thuốc như Tylenol, Neurotin. Hiện nay tôi đã lập gia đình và muốn có con trong thời gian tới. Cho tôi hỏi bệnh này có nên có thai không, có bị di truyền hay ảnh hưởng gì đến thần kinh của trẻ không? Các loại thuốc mà tôi đang sử dụng có thể dùng khi mang thai được không? Ngoài ra bác sĩ có thể chỉ tôi những thực phẩm hay biện pháp nào không dùng thuốc để giảm bệnh được không ạ? Xin cảm ơn bác sĩ.
Trả lời:
===
Tham vấn thông tin, tư vấn và hẹn khám bệnh:
✍ Sài Gòn: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện ĐHYD
✍ Hà Nội: Đại Học Y Hà Nội, Viện 103
✍ Đà Nẵng: Bệnh viện Tâm Thần Đà Nẵng
===
1. Bệnh đau dây thần kinh thiệt hầu là gì?
Đau dây thần kinh thiệt hầu là một rối loạn bao gồm các cơn đau lặp đi lặp lại ở lưỡi, cổ họng, tai và amidan. Những khu vực này đều được kết nối với dây thần kinh sọ thứ 9, còn được gọi là dây thần kinh thiệt hầu. Các cơn đau có thể kéo dài từ vài giây đến vài phút và thường xảy ra ở một bên mặt, có thể gây khó khăn cho việc ho và nuốt. Cơn đau có thể được kích hoạt bằng cách nói, cười, nhai, nuốt hoặc ho.
Nguyên nhân đau dây thần kinh thiệt hầu được cho là do dây thần kinh thiệt hầu bị kích thích, nhưng nguyên nhân chính xác của sự kích thích đôi khi không rõ. Các xét nghiệm và kĩ thuật hình ảnh có thể được sử dụng để chẩn đoán rối loạn và loại trừ các vấn đề tiềm ẩn nghiêm trọng. Mục tiêu của điều trị là kiểm soát cơn đau, và các loại thuốc hiệu quả nhất là thuốc chống co giật và thuốc chống trầm cảm. Phẫu thuật cắt đứt hoặc giảm áp lực của dây thần kinh thiệt hầu có thể cần thiết trong trường hợp nặng.
Để hiểu cụ thể hơn về bệnh, bạn có thể tra cứu thêm thông tin trong bài Đau dây thần kinh số 9 là bệnh gì.
2. Bệnh này có di truyền không?
HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG DỄ DÀNG GẶP BÁC SĨ: GỌI 1900146 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỨC KHỎE LẬP TỨC: GỌI 19001246
(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)
3. Các thuốc điều trị bệnh có gây hại cho thai nhi không?
Thuốc chống co giật: Carbamazepine, oxcarbazepine, phenytoin, gabapentin (Neurotin), pregabelin và các thuốc chống động kinh khác thường được kê đơn cho GPN. Sản phụ dùng thuốc này thì thai nhi có nguy cơ bất thường cao hơn (2-3 lần) so với những sản phụ khác. Các dị tật lớn, chẳng hạn như bệnh tim bẩm sinh, dị tật ống thần kinh, dị tật niệu sinh dục và sứt môi hoặc vòm miệng, xảy ra ở khoảng 3 – 7% phụ nữ có thai dùng thuốc chống co giật. Dùng nhiều hơn một loại thuốc có nguy cơ cao hơn đơn trị liệu.
Thuốc chống trầm cảm: Amitriptyline và các thuốc chống trầm cảm khác đôi khi được kê đơn để sử dụng cùng với thuốc chống co giật. Nếu dùng thuốc chống trầm cảm trong ba tháng cuối của thai kỳ, em bé sinh ra có thể gặp “hội chứng cai thuốc” tạm thời – chẳng hạn như bồn chồn, khó chịu, ăn kém và suy hô hấp – cho đến một tháng sau khi sinh. Paroxetine (SSRI )thường không được khuyến khích trong thai kỳ do có tỉ lệ nhỏ gia tăng các khuyết tật tim thai. Ngoài ra, các chất ức chế monoamin oxydase (MAOIs) – phenelzine và tranylcypromine – cũng không được khuyến khích trong thai kỳ do có thể hạn chế sự phát triển của thai nhi.
Thuốc gây tê: Có thể tiêm hoặc bôi tại chỗ thuốc gây tê cục bộ cho những khu vực xảy ra đau (ví dụ: phía sau cổ họng). Gây tê tại chỗ là an toàn cho phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, phải cân nhắc sử dụng loại thuốc tê nào, mức độ cần thiết và giai đoạn của thai kỳ. Nếu cần phải gây tê tại chỗ, hãy trao đổi với bác sĩ về sự an toàn và các lựa chọn thích hợp cho tình huống của bạn.
Nói chung, không nên sử dụng các loại thuốc điều trị đau dây thần thiệt hầu trong thai kỳ, đặt biệt là ba tháng đầu mang thai, vì có nhiều khả năng gây ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Nếu thật sự cần thiết, hãy trao đổi với bác sĩ trước khi sử dụng bất cứ loại thuốc nào. Trong trường hợp nghiêm trọng, có thể phẫu thuật để loại bỏ áp lực từ dây thần kinh thiệt hầu. Điều này có thể loại bỏ nguyên nhân gây áp lực lên dây thần kinh hoặc cắt đứt dây thần kinh để nó không còn gây đau nữa.
Thông tin có thể hữu ích cho bạn:
4. Dinh dưỡng và các biện pháp hỗ trợ
Thực phẩm và dinh dưỡng giúp giảm đau thần kinh
Thực phẩm cần tăng cường:
Các loại trái cây và rau quả như quả nam việt quất, bông cải xanh, dâu tây, cam, bưởi, quả mâm xôi, quả việt quất, cà chua, cải xoăn và rau bina…rất giàu vitamin C, một chất chống oxy hóa tan trong nước giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của bạn.
Thực phẩm giàu axit béo omega 3 như cá biển, hạt lanh, quả óc chó, đậu nành, dầu canola và hạt bí ngô. Vì axit béo omega 3 làm giảm viêm trong cơ thể và ngăn ngừa tổn thương thần kinh.
Uống nhiều nước và các thực phẩm khác có chứa nước như cam, nước dùng, rau diếp, trà thảo dược, đào và nho.
Tiêu thụ một lượng vừa đủ thịt nạc có thể làm giảm đau thần kinh. Các loại thịt nạc như thịt bò, cá, thịt gia cầm, thịt cừu và gà tây rất giàu vitamin B12, một loại vitamin tan trong nước giúp cải thiện chức năng hệ thống miễn dịch.
Thực phẩm chứa nhiều chất chống oxy hóa bao gồm quả việt quất, quả mâm xôi, cà chua, bông cải xanh, nho đỏ, tỏi, rau bina, cà rốt, lựu, sô cô la đen và trà xanh.
Thực phẩm cần tránh:
Hạn chế thực phẩm có đường
Tránh đồ uống có chứa caffeine
Đồ nhiều chất béo và đồ ăn vặt
Yoga và tập thể dục
Một số bài tập thần kinh có thể được khuyến nghị bao gồm:
Đi bộ
Các bài tập tăng phạm vi chuyển động của khớp
Thủy trị liệu
Thể dục nhịp điệu
Các bài tập căng dãn cơ
Các bài tập cường độ nhẹ khác
Các tư thế Asana Yoga giúp giảm đau thần kinh bao gồm:
Ardhakati Cakrasana (tư thế xoay nửa eo)
Ardha Cakrasana (tư thế nửa bánh xe)
Bhujangasana (tư thế rắn hổ mang)
Kapalabhati (thở ra mạnh)
Âm nhạc và Thiền
Ngồi thiền – Ngồi trong tư thế padmasana và tập trung vào hơi thở của bạn
Âm nhạc thư giãn làm dịu thần kinh của bạn
Biện pháp khắc phục tại nhà
Hãy thử dùng túi nhiệt ấm hoặc túi nước đá để giúp cơ cổ được thư giãn
Cuộn một chiếc khăn lại và để nó dưới cổ của bạn thay vì dùng gối
Giữ cho đầu và mặt của bạn được che chắn trong khi ngủ
Cố gắng không ngủ ở phía bị ảnh hưởng để cơn đau không tăng lên vào sáng hôm sau
Tắm nước nóng cũng có thể giúp kiểm soát cơn đau
Tóm lại, bệnh đau dây thần kinh thiệt hầu là do dây thần kinh số 9 bị kích thích, rất ít khả năng di truyền. Bệnh thường không ảnh hưởng đến việc mang thai. Tuy nhiên, các thuốc dùng để điều trị bệnh lại có nguy cơ gây bất thường cho sự phát triển của thai. Cần phải tham khảo ý kiến của bác sĩ trước khi sử dụng bất cứ thuốc gì. Đồng thời nên có chế độ ăn uống lành mạnh và các bài tập cường độ nhẹ để hỗ trợ kiểm soát cơn đau.
Lời khuyên của chúng tôi: Tình trạng bệnh của bạn sẽ không ảnh hưởng nhiều đến việc mang thai, nhưng loại thuốc Neurotin bạn đang sử dụng có thể gây hại đến thai nhi. Do đó bạn nên ngưng sử dụng thuốc trước khi có ý định mang thai. Nếu không thể kiểm soát được cơn đau thì nên báo với bác sĩ để xem xét sử dụng các biện pháp khác chứ không nên tự ý mua thuốc.
HELLO DOCTOR- MANG SỨC KHOẺ ĐẾN CUỘC SỐNG DỄ DÀNG GẶP BÁC SĨ: GỌI 1900146 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ SỨC KHỎE LẬP TỨC: GỌI 19001246
(Liên lạc qua điện thoại, trước khi đến trực tiếp cơ quan y tế, để tránh lây nhiễm Covid-19)
Đau Dây Thần Kinh Số V
1. TỔNG QUAN
Có nhiều loại đau ở mặt khác nhau nhưng mô tả đầu tiên và đầy đủ nhất là đau dây thần kinh số V của John Locke. Đây là lần đầu tiên ông điều trị cho vợ một bá tước Northumberland và là một đại sứ Anh tại Pháp vào tháng 4 năm 1677.
Vào năm 1773, John Forthergill mô tả 14 trường hợp thường gặp và nhấn mạnh đến loại đau này xảy ra đột ngột và bất ngờ được gọi là đau dây thần kinh số V, thường gặp người lớn tuổi, nữ nhiều hơn nam. Từ năm 1773, đau này (tic douloreux) được công nhận như một thực thể lâm sàng.
Đau dây thần kinh số V là một loại đau rất đặc thù, trong cơn đau thường rất nặng, xảy ra đột ngột và thường kéo dài từ vài giây cho đến không quá một phút. Đau này thường là tự phát hoặc xuất phát từ một điểm đau như cò súng (trigger spot). Đau dây thần kinh số V thường xuất hiện một bên, cũng có một số rất hiếm xuất hiện đau dây V hai bên, chiếm 3-6 % trường hợp. Những trường hợp đau hai bên không phải xuất hiện cùng một lúc mà đau một bên trong một thời gian dài rồi sau đó mới xuất hiện phía đối bên.
Đau dây thần kinh V là một triệu chứng đặc thù (không phải là một bệnh). Trên 70% đau dây V trên 70 tuổi, đau dây V cũng được liên kết với những nguyên nhân và cơ chế sinh lý bệnh khác nhau.
Với nhiều năm kinh nghiệm về điều trị đau dây thần kinh V, nhiều bệnh nhân mô tả cơn đau dây V cũng như khám xét thần kinh cẩn thận, đồng thời theo dõi bệnh nhân sau mổ hoặc điều trị nội khoa để đưa ra những kết luận về đau dây V.
Như vậy, có ba kiểu đau chính cần phân biệt:
– Đau dây V vô căn hay còn gọi là cơn đau đặc hiệu của dây V (tic douloureux)
– Đau dây V triệu chứng
– Đau mặt nhưng không điển hình của của đau dây V
Cho đến nay, nguyên nhân của đau dây V vẫn còn là điều bí ẩn
3. CHẨN ĐOÁN
Chẩn đoán đau dây V đặc hiệu dựa trên bệnh sử của đau. Bởi vì cũng cần phân biệt với triệu chứng đau khác ở mặt như : đau dây IX (glossopharyngeal neuralgia), đau dây thần kinh sau Herpes, hội chứng Reader, hội chứng Sluder, đau thần kinh thể gối, đau khớp thái dương hàm, đau đầu Cluster, đau thần kinh mặt sau chấn thương, đau do bệnh về răng, hốc mắt hoặc xoang.
4. ĐIỀU TRỊ: 4.1.Điều trị nội khoa:
Sử dụng thuốc chống co giật như Phenytoin (Dilantin, Di-hydan) và Carbamazepine (Tegretol). Carbamazepine là thuốc hàng đầu dùng điều trị để kiểm soát đau dây V.
Đối với bệnh nhân đau dây V thường khởi đầu điều trị bằng Carbamazepine hoặc Phenytoin với liều thấp sau đó tăng dần. Phenytoin là một loại thuốc rẻ tiền nhưng ít hiệu quả hơn Carbamazepine và tác dụng phụ cũng ít hơn so với Carbamazepine. Nếu sử dụng thuốc này có hiệu quả thì nên duy trì, nếu chưa đạt yêu cầu và có tác dụng phụ thì nên chọn loại thuốc khác, bởi vì nồng độ trong máu của thuốc này không tương quan với giảm đau. Chúng tôi đề nghị liều dùng của thuốc có thể tăng lên cho đến khi đạt đến mức giảm đau tốt nhất, nhưng theo Closer cũng khuyến cáo dùng liều cao cho đến khi có dấu hiệu ngộ độc. Theo ông ta nên dùng phối hợp cả hai loại thuốc nếu một loại không đủ giảm đau. Liều thông thường của Phenytoin là 300mg hoặc 400mg/ngày. Carbamazepine với liều khởi đầu là 100 mg hoặc 200mg/ngày sau đó tăng dần và liều tối đa có thể lên đến 1.200 mg hoặc 1.800 mg/ngày. Carbamazepine có thể gây tắc nghẽn mạch hoặc rối loạn chức năng gan. Vì vậy, khi bệnh nhân sử dụng thuốc này cần kiểm tra máu và chức năng gan định kỳ. Dù carbamazepine và Phenytoin có tác dụng giảm đau dây V ở thời kỳ đầu nhưng sau đó tác dụng giảm dần theo thời gian, đến lúc nào đó bệnh nhân cần phải phẫu thuật.
Baclofen, clonazepam và những loại thuốc khác ít có hiệu quả trong điều trị đau dây V. Nói chung, analgesic không có hiệu quả trong điệu trị đau dây V, không làm giảm cơn đau đột ngột mà cũng không gây ngủ gà và những tác dụng phụ khó chịu khác.
4.2 Điều trị ngoại khoa:
Hầu như trên 90% các bệnh nhân đau dây thần kinh số V thường khởi đầu điều trị nội khoa với 2 loại thuốc thông dụng duy nhất là Carbamazepine và Phenytoin trong một thời gian dài cho đến khi phải dùng liều cao hoặc không còn tác dụng với 2 loại trên thì người bệnh yêu cầu điều trị bằng phương pháp ngoại khoa.
Trong điều trị đau dây V bằng ngoại khoa có rất nhiều phương pháp nhưng có 2 nhóm phương pháp ngoại khoa gồm: nhóm phương pháp làm tổn thương dây V và nhóm không làm tổn thương dây V.
4.2.1 Nhóm phương pháp làm tổn thương dây V:
4.2.1.1 Phương pháp chích dọc theo đường đi dây V:
Trong 80 năm qua, nhiều tác giả sử dụng alcohol chích dọc theo đường đi dây V như dây thần kinh trên hốc mắt, dây thần kinh dưới hốc mắt, nhánh V2 hoặc nhánh V3. Nếu điều trị theo phương pháp này bệnh nhân có thể ngoại trú và phương pháp này có thể lặp lại nếu đau dây V tái phát. Với một kết quả nghiên cứu trên 1500 trường hợp từ 1912 đến 1952 mà thời gian giảm đau trung bình cho dây thần kinh trên hốc mắt là 8.5 tháng, cho dây thần kinh dưới hốc mắt là 12 tháng, nhánh V2 là 12 tháng, cho dây thần kinh V3 là 16 tháng. Bất lợi của phương pháp này là mất cảm giác tạm thời hoặc dị cảm.
4.2.1.2 Cắt dây thần kinh ngoại biên (Peripheral neurectomy):
Cắt hoặc đốt nhánh ngoại biên của dây thần kinh số V có lẽ tốt hơn chích alcohol. Khi cắt hoặc đốt, phẫu thuật viên thực hiện một cách chính xác hơn, hoàn hảo hơn và hiệu quả lâu dài hơn. Những nhánh thần kinh dễ dàng thực hiện là nhánh trên ổ mắt, nhánh trên ròng rọc, nhánh dưới ròng rọc, nhánh dưới ổ mắt và thần kinh cằm, thần kinh ổ răng dưới, thần kinh lưỡi. Grantham và Segerberg đã tổng kết nghiên cứu thời gian khỏi đau trung bình 33,2 tháng sau khi cắt thần kinh ổ mắt trên và ổ mắt dưới; Còn đối với Quinn là 26 tháng khi cắt dây thần kinh ổ mắt dưới, kết quả cắt dây thần kinh ổ răng dưới là 37 tháng, cắt dây thần kinh lưỡi là 38 tháng và cắt dây thần kinh cằm là 24 tháng. Thông thường khi cắt các dây thần kinh nêu trên chỉ cần gây tê tại chỗ và không cần nằm viện. Đôi khi một số ít trường hợp cần phải gây mê. Trong trường hợp chích alcohol vào nhánh ngoại biên dễ gây mất cảm giác và cuối cùng đau tái phát khi cảm giác phục hồi lại.
4.2.1.3 Cắt dây thần kinh số V sau hạch Gasser qua đường vào cực thái dương:
Qua đường cực thái dương nhiều tác giả như David Ferrier (1890) William Spiller (1898) và Lewillys Barker (1900) đã đề nghị phương pháp cắt rễ thần kinh V để điều trị đau dây V như là một phương pháp thường qui. Mãi đến năm 1901, Charler Frazier chọn lựa đường vào cực thái dương của Hartley -Krause để đến dây thần kinh số V và cắt dây thần kinh V sau hạch Gasser như là một phương pháp chọn lựa duy nhất có tỉ lệ tử vong và tỉ lệ rủi ro thấp nhất là 1-3 % và tỉ lệ thành công từ 95-99%, nhưng tỉ lệ tái phát cao từ 5-20 %; còn tỉ lệ rủi ro của phương pháp này cũng có ý nghĩa.
4.2.1.4. Cắt dây thần kinh V gần cầu não:
Walter Dandy là người thực hiện phương pháp cắt dây V gần cầu não qua đường vào cực thái dương để điều trị đau dây V. Với phương pháp nầy Dandy đã tách rễ cảm giác chính của dây V gần cầu não rồi cắt bán phần hoặc toàn phần rễ cảm giác đó. Điều rất ngạc nhiên của phương pháp nầy là không làm mất cảm giác giác mạc và cảm giác ở mặt sau mổ.
Vào thập niên 80, với 16 trường hợp được thưc hiện tại bệnh viện Chợ Rẫy bằng phương pháp nầy cho kết quả đáng khích lệ. Tất cả hết đau ngay sau mổ và kéo dài nhiều năm sau.
Khi kính vi phẫu thuật ra đời vào thâp niên 60 cùng với kỹ thuật gây mê hiện đại hơn thì phương pháp nầy an toàn hơn. Do đó, khi các phẫu thuật viên thần kinh bộc lộ rõ dây V tại cầu não đã tìm thấy một số bất thường khác như mạch máu chèn ép dây V hoặc dây V đã bị vặn xoắn do khối u.
4.2.1.5. Phương pháp mở thông dây V:
Phương pháp mở thông dây V trong điều trị đau dây V được Sjoqvist thực hiện từ năm 1937. Phương pháp nầy cũng làm giảm đau dây V nhưng bảo tồn được chức năng cảm giác và vận động của dây V. Tuy nhiên, nó không được áp dụng rộng rãi như một vài phương pháp khác.
4.2.1.6. Nhiệt đông dây V tại hạch Gasser qua da bằng sóng radio:
Trải qua một thời kỳ dài về điều trị đau dây V, các phương pháp khác nhau từ ngoài sọ cũng như những phương pháp đi vào bên trong hộp sọ nhằm điều trị đau dây V với những kết quả đạt được cũng khác nhau. Đối với các phương pháp đi vào bên trong hộp sọ qua da để đi tới hạch Gasser và các rễ sau hạch rồi bơm từng giọt alcohol, nước nóng, phenol v.v …cũng đạt được kết quả đáng khích lệ.
Vào đầu năm 1930 Kirschner giới thiệu một phương pháp đốt điện tại hạch Gasser qua da có sự hướng dẫn của hệ thống định vị để đưa kim qua lỗ bầu dục như là một phương pháp được áp dụng rộng rãi ở Châu Âu. Phương pháp nầy chỉ kiểm soát rối loạn cảm giác ở một mức độ nào đó.
Để khắc phục kỹ thuật của Kirschner, Sweet đã giới thiệu kỹ thuật dùng sóng radio vào năm 1970 nhằm cải thiện sự kiểm soát khi nhiệt đông dây V1, V2 và V3. Vào năm 1955 White và Sweet đã tuyên bố rằng ” Nếu chích alcohol để điều trị đau dây V thì khó tránh được tổn thương giác mạc”. Trong khi đó đối với phương pháp dùng sóng radio chúng ta có thể (1) làm tổn thương V2, V3 mà không làm ảnh hưởng đến dây V1 và các cấu trúc lân cận; (2) tỉ lệ tái phát giảm rõ rệt; và tỉ lệ tử vong hầu như gần số 0. Nhưng chúng ta cũng biết rằng không có bất cứ một phương pháp nào thỏa mãn hoàn toàn điều trị đau dây V. Phương pháp lý tưởng nhất là điều trị phải an toàn và không làm rối loạn cảm giác ở mặt.
Tại khoa ngoại thần kinh bệnh viện Chợ Rẫy, chúng tôi đã tổng kết 1082 trường hợp nhiệt đông dây V tại hạch Gasser qua da bằng sóng radio từ năm 2002 đến năm 2008 với hệ thống máy Radionics để chuyển sóng radio thành nhiệt độ C để làm tổn thương nhánh dây V cần điều trị. Thông thường, tùy theo sự thích nghi của bệnh nhân nhiệt độ có thể thay đổi từ 50 độ C đến 70 độ C. Khoảng trên 95% hết đau ngay sau khi đốt. Hiện nay, phương pháp nầy cũng được áp dụng rộng rãi với tỉ lệ thành công khá cao (75% – 80%). Ưu điểm của phương pháp nầy nếu đau dây V tái phát có thể đốt lại nhiều lần. Đây là một phương pháp đơn giản, không cần gây mê cũng như không cần nằm viện, áp dụng cho mọi lứa tuổi và đôi khi có một số bệnh lý kèm theo cũng có thể thực hiện được phương pháp nầy.
Những bất lợi lớn nhất của phương pháp nầy là dị cảm và loạn cảm gây khó chịu cho người bệnh tại vùng chi phối cảm giác của dây V. Khoảng 5% có rối loạn cảm giác khó chịu, một vấn đề khác là mất phản xạ giác mạc có nguy cơ viêm giác mạc thần kinh và khả năng mù mắt. Tỉ lệ tái phát của phương pháp nầy chiếm 20% nhưng vẫn có thể đốt lập lại.
Với 1082 trường hợp nhiệt đông dây V tại hạch Gasser qua đã được thực hiện từ năm 2002 đến giữa năm 2008; Tuổi nhỏ nhất là 36 tuổi và lớn nhất là 92 tuổi, Nữ nhiều hơn nam, bên phải chiếm ưu thế hơn bên trái. Đa số là dây V3 đơn độc rồi đến V2, V3; đứng hàng thứ ba là V2 đơn thuần; Riêng dây V1 rất hiếm. Hết đau ngay sau khi nhiệt đông là 96,8%. Thời gian theo dõi trung bình 2 năm với kết quả như sau:
Theo dõi lâu dài 1082 trường hợp:
Tỉ lệ tái phát: 18%
Trong số nầy thời gian đau lâu nhất là 45 năm và ngắn nhất là 2 tháng. Biến chứng gặp trong nhiệt đông dây V qua da là dị cảm nửa mặt với mức độ khác nhau tùy theo nhiệt độ khi đốt, chiếm một tỉ lệ 34%, so với Kanpolat với kinh nghiệm 1600 trường hợp tại Thổ Nhĩ Kỳ và Affelbaum tại Mỹ với 126 trường hợp thì không khác biệt nhiều. Tỉ lệ yếu cơ nhai là 2,9% so với Kapolat là 3%, tuy yếu cơ nhai nhưng vẫn thực hiện được chức năng ăn uống và đã phục hồi tốt sau 6 tháng. Một trường hợp liệt dây VI đã hồi phục sau 8 tháng.
Với 1082 trường hợp, chúng tôi chưa có trường hợp nào viêm màng não hoặc chảy dịch não tủy so với 1600 trường hợp của Kanpolat có một trường hợp viêm màng não và hai trường hợp rò dịch não tủy.
4.2.2 Nhóm phương pháp không làm tổn thương dây V:
4.2.2.1. Phương pháp giải áp vi mạch (Microvascular decompression):
Đây là một phương pháp được áp dụng phổ biến ở các trung tâm phẫu thuật thần kinh trên thế giới và cũng là một phương pháp có hiệu quả cao nhất hiện nay với tỉ lệ tái phát thấp. Tỉ lệ thành công của phương pháp nầy tùy thuộc vào từng nhóm nghiên cứu khác nhau của nhiều tác giả.
Đa số các trường hợp quan sát trong khi mổ nhận thấy động mạch tiếp cận với dây V trong 94 trường hợp, chiếm 82,35%, tương đương với Apfelbauum với tỉ lệ 83% [ 1 ]. Động mạch tiểu não trên đơn độc chỉ 73,52% và phối hợp với động mạch tiểu não trước dưới với 7,3%. Trong số nầy có một trường hợp động mạch thân nền tiếp cận với dây V và đã giải áp vi mạch thành công như Tomasello [16], Linskey [9] đã đề cập. Trong số 197 trường hợp, chỉ có 4 trường hợp tĩnh mạch đá trên tiếp cận dây V như mô tả của Matsushima [10] và có kết quả tuyệt vời sau giải áp. Ngoài ra, có 6 trường hợp cả động mạch và tĩnh mạch tiếp cận dây V, đã được giải áp với kết quả cũng tuyệt vời.
Chúng tôi có một trường hợp tái phát sau bốn năm giải áp với kết quả tuyệt vời, chiếm tỉ lệ 2,9% so với Apfelbaum là 1% cho mỗi năm và trường hợp nầy đã nhận một phương pháp điều trị khác với nhiệt đông dây V cho kết quả tốt. Điều nầy cũng cùng quan điểm với Apfelbaum, Tronnier [2], Broggi [3]. Trong số 197 trường hợp, có 3 trường hợp không thành công do không tìm thấy bất cứ một mạch máu nào tiếp cận với dây V và sau mổ đương nhiên vẫn đau như trước mổ. Sau đó, ba trường hợp trên phải áp dụng phương pháp nhiệt đông dây V nhưng chỉ hai trường hợp kết quả tuyệt vời; trường hợp còn lại phải nhiệt đông dây V thêm 2 lần nữa nhưng cũng không thành công và phải chấp nhận dùng thuốc lâu dài với liều cao.
Đa số các trường hợp gặp ở nữ nhiều hơn nam, tỉ lệ khoảng 2:1, bên phải ưu thế hơn bên trái và đa số đau V2, V3 chiếm tỉ lệ 28,4%, điều nầy cũng phù hợp với nhận định của nhiều tác giả như Tronnier [17], Ashkan [2 ], Zakrzewska [19], Kalkanis [7], Hitotsumatsu [4], Matsushima [10 ] Rak [12]. Nghiên cứu của chúng tôi, với số liệu 197 bệnh nhân đã được đánh giá và theo dõi với thời gian trung bình 1,8 năm, với nhận xét của chúng tôi cũng phù hợp với kinh nghiệm khổng lồ của Jannetta với kết quả của 1185 trường hợp đau dây V điển hình đã được phẫu thuật giải áp vi mạch trong 20 năm mà tác giả đã báo cáo tại một trung tâm tạp chí y khoa Anh quốc.
Đa số các trường hợp trong nghiên cứu nầy đã sử dụng Carbamazepine hoặc Diphenylhydantoin từ một năm cho đến 10 năm trước khi phẫu thuật. Dĩ nhiên, liều dùng đã được tăng dần theo thời gian, thậm chí có những trường hợp phải sử dụng đến 8 viên mỗi ngày (1600mg).
Với kinh nghiệm 1082 trường hợp nhiệt đông dây V tại hạch Gasser qua da và 197 trường hợp giải áp vi mạch, chúng tôi đề nghị một số chỉ định ngoại khoa như sau:
– Đau dây V điển hình
– Thất bại trong sử dụng thuốc lâu dài để kiểm soát đau dây V
– Điều trị nội khoa không còn hiệu quả
– Khi điều trị nội khoa có hiệu quả nhưng phải sử dụng liều cao
Khi đặt vấn đề can thiệp ngoại trong đau dây thần kinh số V, cần phải phân biệt ba loại đau ở mặt:
– Đau dây thần kinh V vô căn
– Đau dây V triệu chứng
– Đau vùng mặt không điển hình
Đối với những trường hợp đau ở mặt không điển hình của đau dây V không nên đặt vấn đề can thiệp ngoại khoa.
Chính vì vậy, bất cứ một phương pháp ngoại khoa nào cũng phải đạt đến một giá trị lớn khi:
– Phẫu thuật an toàn và ít tai biến
– Tỉ lệ thành công cao
– Tỉ lệ tái phát thấp và chấp nhận được
– Tỉ lệ biến chứng thấp và chấp nhận được
Hiện nay chúng tôi đang áp dụng hai phương pháp ngoại khoa điều trị đau dây thần kinh số V như giải áp vi mạch và nhiệt đông dây V tại hạch Gasser qua da. Đây là hai phương pháp được áp dụng phổ biến trên khắp thế giới nhưng giải áp vi mạch vẫn là một phương pháp có hiệu quả cao. Trong 6 năm qua, từ năm 2002 đến cuối năm 2007 chúng tôi đã thực hiện nhiệt đông dây V với 1187 trường hợp, đạt kết quả tốt từ 75 đến 80%. Đây là một phương pháp có thể thực hiện cho mọi lứa tuổi, chỉ gây tê tại chỗ, không cần nằm viện, ít tốn kém.
Trong số 197 trường hợp đã giải áp vi mạch dây V, có 8 trường hợp vẫn còn đau ngay sau mổ và kéo dài từ 5 đến 7 ngày, sau đó hết đau hoàn toàn. Đây là những trường hợp trong lúc mổ khi quan sát có mạch máu tiếp cận với dây V rất điển hình. Ngoài ra, chúng tôi có 4 trường hợp tái phát sau giải áp vi mạch từ 2 năm đến 8 năm, các trường hợp nầy đã được mổ lại do các mạch máu trượt ra khỏi miếng Teflon rồi tiếp cận trực tiếp trở lại với dây V. Sau đó đã được bóc tách để đặt thêm miếng Teflon nhỏ khác và đã hết đau hoàn toàn ngay sau mổ.
Kết quả giải áp vi mạch tùy thuộc vào chỉ định phẫu thuật, nếu chúng ta chọn những trường đau dây thần kinh V đặc hiệu thì kết quả phương pháp nầy rất cao như trong nghiên cứu của chúng tôi; Còn nếu chúng ta chỉ định rộng rãi cho những trường hợp đau dây V mà trên lâm sàng hoàn toàn không đặc hiệu thì kết quả phẫu thuật sẽ hạn chế và tỉ lệ đạt được sẽ thấp hơn. Điều nầy cũng phù hợp với nghiên cứu của Hitotsumatsu (4).
Dựa theo bảng phân loại kết quả điều trị sau giải áp vi mạch của Apfelbaum, với 197 trường hợp đã được theo dõi đánh giá như sau:
5. Kết luận : Đau dây thần kinh số V là một loại đau rất khó chữa bằng thuốc. Do đó, nhiều phương pháp ngoại khoa đã được đề cập và áp dụng từ thời kỳ đầu của thế kỷ 20 nhằm cứu chữa loại đau khó chịu nầy. Mãi cho tới hôm nay, vấn đề nầy vẫn còn nhiều bàn cãi cả về cơ chế lẫn phương pháp điều trị, nhưng hiện nay giải áp vi mạch được đánh giá như là một phương pháp có hiệu quả cao nhất và đã được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Ngoài ra, nhiệt đông dây V tại hạch Gasser qua da bằng sóng radio cũng là một phương pháp được áp dụng khá phổ biến hiện nay và kết quả rất đáng khích lệ.
Tài liệu tham khảo
1. Apfelbaum RI. Comperision of the long-term result of microvascular decompression and percutaneous trigeminal neurolysis for the treatment of trigeminal chúng tôi Watanabe K. Development in Neuroscience. Elsevier Science B.V, 2002, 629 – 643.
2. Ashkan K, Marsh H. Microvascular decompression for trigeminal neuralgia in the elderly: A review of the safety and efficacy. Neurosurg 55: 840 – 850, 2004.
3. Broggi G, Ferroli P, Franzini A. Operative findings and outcomes of microvascular decompression for trigeminal neuralgia in 35 patients affected by multiple sclerosis. Neurosurg 55: 830 – 839, 2004.
4. Hitotsumatsu T, Matsushima T, Inoue T. Microvascular decompression for treatment of trigeminal neuralgia, hemifacial spasmand glossopharyngeal neuralgia: Three surgical approach variations : Technical note. Neurosurg 53: 1436 – 1443, 2003.
5. Jawahar A, Kondziolka D, Kanal E. Imaging the trigeminal nerve and pons before and after surgical intervention for trigeminal neuralgia. Neurosurg 48: 101 – 107, 2001.
6. Fleetwood IG, Innes AM, Hansen SR, Steiberg GK. Family trigeminal neuralgia. J. Neurosurg 95: 513 – 517, 2001.
7. Kalkanis SN, Eskandar EN, Carter BS, Barker FG. Microvascular decompression surgery in the United State, 1996 – 2000: Mortality rates and the effects of hospital and surgeon volumes. J. neurosurg 52: 1251 – 1262, 2003.
8. Kobeta H, Kondo A, Iwasaki K. Cerebellopontine angle epidermoids presenting with cranial nerve hyperective dysfunction : Pathogenesis and long-term surgical results in 30 patients. Neurosurg 50: 276 – 286, 2002.
9. Linskey ME, Jho HD, Jannetta PJ. Microvascular decompression for trigeminal neuralgia caused by vertebral basilar compression. J. Neurosurg 81: 1 – 9, 1994.
10. Matsushima T, Phuong HL, Miyazono M. Trigeminal neuralgia caused by venous compression. Neurosurg 55: 334 – 339, 2004.
11. McNatt SA, Yu C, Gianaotta SL. Gamma knife radiosurgery for trigeminal neuralgia. Neurosurg 56: 1295 – 1303, 2005.
12. Rak R, Sekha LN, Stimac D, Hechl P. Endoscope assisted microsurgery of microvascular decompression syndromes. Neurosurg 54: 876 – 883, 2004.
13. Rhoton AL. The cerebellopontine angle and posterior fossa cranial nerves by the retrosigmoid approach. Neurosurg 47:
14. Ridder DD, Rya H, Moller AR. Functional anatomy of the human cochlear nerve and its role microvascular decompression for tinnitus. Neurosurg 54: 381 – 390, 2004.
15. Sampson JH, Grossi PM, Asaoka K. Microvascular decompression for glossopharyngeal neuralgia : Long term effectiveness and complication avoidance. Neurosurg 54: 884 – 890, 2004.
16. Tomasello F, Alafaci C, Salpietro FM, Longo M. Bulbar compression by an ectatic vertebral artery: A novel neurovascular construct relieved by microsurgical decompression. Neurosurg 56: 117 – 122, 2005.
17. Tronnier VM, Rashe D, Hamer J. Treatment of Idiopathic Trigeminal Neuralgia : Comparision of long-term outcome after radiofrequency rhizotomy and microvascular decompression. J. Neurosurg 48:, 2001.
18. Vo Van Nho. Microvascular decompression in the treatment of trigeminal neuralgia and hemifacial spasm. HCM J, Medicine 4: 62 – 66, 2000.
19. Zakrzewska JM, Lopez BC, Kim SE. Patient reports of microvascular decompression and partial sensory rhizotomy for trigeminal neuralgia. Neurosurg 56: 1304 – 1312, 2005.
Cách Chữa Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5 Bằng Đông Y
Cách chữa bệnh đau dây thần kinh số 5 – một căn bệnh với diễn biến phức tạp và gây ra những cơn đau đớn khủng khiếp cho người bệnh nhiều năm qua vẫn đang chờ đợi một đáp án thỏa đáng. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ chia sẻ một tin vui về phương pháp điều trị đau dây thần kinh số 5 cho người bệnh.
Tìm hiểu về dây thần kinh số 5 và bệnh đau dây thần kinh số 5
Dây thần kinh số 5 là gì?
Bệnh đau dây thần kinh số 5 ảnh hưởng như thế nào?
Bệnh đau dây thần kinh số 5 có thể xảy ra do viêm đa dây thần kinh, tổn thương nền sọ, ảnh hưởng của bệnh zona thần kinh hoặc nhiều yếu tố khác. Cho đến nay, các nguyên nhân chính xác của căn bệnh này vẫn được coi là một ẩn số. Do đó cách chữa đau dây thần kinh số 5 cũng gặp khá nhiều khó khăn.
Tổn thương dây thần kinh số 5 chủ yếu xảy ra ở phụ nữ tuổi trung niên, nam giới cũng có khả năng bị bệnh nhưng tỉ lệ thấp hơn.
Bệnh thường gây ra những cơn đau đớn vùng mặt, cho dù chỉ kéo dài từ vài giây tới vài phút nhưng cũng vô cùng khủng khiếp. Đau thường xuất hiện khi vùng mặt bị kích thích như nói chuyện, cười, ăn uống… Sau cơn đau, người bệnh lại trở về trạng thái bình thường.
Chữa bệnh đau dây thần kinh số 5
Cách chữa bệnh đau dây thần kinh số 5 trước đây chủ yếu dựa vào thuốc giảm đau cùng thuốc chống động kinh và thuốc chống viêm. Có khoảng 70% các ca bệnh cho kết quả điều trị bệnh khá tốt trong thời gian đầu. Tuy nhiên cũng không ít bệnh nhân rơi vào tình trạng nhờn thuốc, điều trị lâu dài nhưng không thu được kết quả.
Khi bệnh nặng và các cơn đau kéo đến quá dữ dội, bệnh nhân có thể được chỉ định điều trị bệnh đau dây thần kinh số 5 bằng cách phẫu thuật cắt một phần dây thần kinh, phẫu thuật mở hoặc phá hủy hạch.
Hiện nay, thay vì sử dụng thuốc Tây hoặc phẫu thuật, người bệnh lại thường sử dụng thuốc Đông y. Đây cũng là xu hướng điều trị chung của cả phương Đông và phương Tây trong những năm gần đây. Trong khi thuốc Tây y bộc lộ nhiều hạn chế như chi phí đắt đỏ, gây nhiều tác dụng phụ thì y học cổ truyền lại gần như khắc phục được toàn bộ các nhược điểm này. Tuy nhiên khi dùng thuốc Đông y để chữa bệnh viêm dây thần kinh số 5, người bệnh cần kiên trì sắc uống và không bỏ dở liệu trình.
Y học cổ truyền của chúng ta có rất nhiều bài thuốc hay được gìn giữ cẩn thận. Trong điều trị bệnh đau dây thần kinh số 5, chúng ta có thể kể đến bài thuốc Vương Dược Bình Cốt của Đông y Nguyễn Văn Liễu. Cách chữa viêm dây thần kinh số 5 này là bí quyết đã được lưu truyền nhiều thế hệ dưới dạng bài thuốc cổ phương. Cho đến khi Đại tá, Bác sĩ Nguyễn Văn Liễu cùng đội ngũ y bác sĩ của Phòng khám Đông y Nguyễn Văn Liễu tập hợp và đưa vào nghiên cứu chuyên sâu, tối ưu hóa từng thành phần dược tính và áp dụng thêm Y học hiện đại để có cơ sở chứng minh cụ thể hiệu quả bài thuốc,
Bài thuốc còn có một dạng khác sử dụng sẵn với 2 chế phẩm là viên cao uống và rượu thuốc xoa bóp, vẫn với các thành phần thảo dược như trên và được phân tách để bào chế thành dạng sử dụng trực tiếp tiện dụng, không cần đun sắc, dễ uống, dễ mang theo.
Vương Dược Bình Cốt là một bài thuốc đáng tìm hiểu và sử dụng, dành cho người bị viêm dây thần kinh số 5 nhưng chưa tìm được biện pháp khắc phục.
Các triệu chứng ban đầu của viêm dây thần kinh số 5 rất giống với các bệnh răng miệng. Vì vậy người bệnh cần tới bệnh viện ngay từ khi thấy các biểu hiện bất thường để tìm cách chữa bệnh đau dây thần kinh số 5 trong thời gian sớm nhất.
Đau dây thần kinh – Chia sẻ kiến thức bệnh đau dây thần kinh
Bạn đang xem bài viết Bệnh Đau Dây Thần Kinh Số 5 Có Di Truyền Không? trên website Kidzkream.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!